Friday, May 21, 2010

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và Ngọc Lan

Thật vô cùng lý thú được đọc bài viết “Mối tình học trò”của Nam Minh Bách kể chuyện đời xưa về Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Lòng ngưỡng mộ của người viết những hàng chữ này với Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước qua những bản nhạc từ trước đến giờ của ông thật vô bờ. Biết thêm chi tiết về ông và nhạc của ông là một món quà văn nghệ đáng quý.
Xin chân thành cảm ơn tác giả Nam Minh Bách.

Xin mời độc giả theo dõi.

Sóng Việt
**

Mối tình học trò

Năm 2000 tôi về thăm Hà Nội, bạn bè cho đọc một bài báo trên tờ Công An lúc đó làm dân Hà Nội xôn xao và bàng hoàng. Nhân dịp năm thứ 5 kỷ niệm ngày vĩnh biệt nhạc sĩ Dương thiệu Tước, ông được ca ngợi là nhạc sĩ đã có công hòa hợp cổ nhạc và tân nhạc, đặt nền móng cho tân nhạc Việt Nam được phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay. Và trong mấy dòng tiểu sử, có nhắc tới mối tình đầu của chàng trai "con cụ Thương Tá Hưng Yên và nàng con gái con cụ Tổng Đốc Hưng Yên Vi văn Định, chàng và nàng yêu nhau thắm thiết và hai gia đình đã trao đổi trầu cau" . Nhưng tình duyên dang dở xé đôi vì một chàng trai bằng cấp đầy mình đã nộp đơn, loại được anh chàng nhạc sĩ hữu tình nhưng không hữu tài này. Dĩ nhiên tài nói đây là tài khoa bảng . Con người diễm phúc lấy được nàng, theo báo Công An là chàng Bác sĩ tây học từ Paris trở về họ Hồ Đắc, con một Đại thần lớn nhất Triều Đình.
Chỉ mấy ngày sau, Gia Đình Hồ Đắc phản ứng ngay, nhà báo nói láo ăn tiền, bà Vi Kim Phú tức là bà Hồ Đắc Di, phu nhân vị cố Khoa trưởng Đại học Y Khoa Hà Nôi không bao giờ đính hôn với nhạc sĩ Dương thiệu Tước, không bao giờ có chuyện nhận trầu cau hay sêu tết gì. Báo Công An lịm đi không trả lời vì họ Hồ Đắc lúc ấy mạnh lại, cũng có bài báo Công An đề cao nhà chí sĩ ái quốc Hồ đắc Trung, lại một bàng hoàng nữa cho dân Hà Nội.
Nhưng báo Công An không xin lỗi, không đính chính vì chỉ lầm có một nửa, nàng trả lại trầu cau là nàng chị chứ không phải nàng em, tuy đám cưới sau em một năm, năm 1936. Nàng Vi Kim Ngọc cũng đẹp lộng lẫy như bà em, hai chị em nổi tiếng Bắc Hà trong thập niên 30 vì sắc đẹp cũng như vì gia thế, sinh trưởng tại gia đình quyền thế nhất Bắc Hà thời đó, gia đình họ Vi.
Báo Công An chỉ còn một nước là rỉ tai và dân Hà Nội bàn tán. Và họ biết là ông Nghè tây diễm phúc lấy được nàng là chả ai xa lạ với dân Hà Nội, Ngài Bộ trưởng Giáo dục 30 năm của Chính phủ Phạm văn Đồng, dân Hà Nội thời thập niên 30 gọi là ông Nghè Huyên, họ Nguyễn.
Đến lượt gia đình họ Nguyễn phải ra tay, con cháu thôi vì mọi người trong cuộc đã thành thiên cổ. Bà con gái Kim Hạnh xuất bản một cuốn sách "Hồi ức về Nguyễn văn Huyên" với những dòng trang đầu sau đây:
"Cha mẹ tôi sống với nhau trọn đời hạnh phúc, được 30 năm kể từ 12/4/1936 cho đến 19/10/1075… Mẹ tôi nhớ lại ngày đầu quen biết trong nhật ký. Em đi chơi cùng cha mẹ vào Huế, khắp Trung Kỳ rồi Lục tỉnh Cao Mên, Thái Lan.. . Nhiều chiêu đãi quốc tế họ trầm trồ khen ngợi em là giai nhân…Đôi ta gặp nhau ở Huế, hội lễ Nam Giao sau đó em tiếc không từ biệt anh . Khi lên xe cha đưa thư anh Toại, (bác Phan kế Toạì chồng chị Mão là chị của cha tôi) cho em xem. Thư cầu hôn giữa anh và em. .. Sau đó bà ngoại mấy lần nhận điện từ Hà Nội cầu hôn…Khi có thư trực tiếp viết cho ông ngoại "gửi lời thăm em người đáng yêu nhất " thì em mới nhận lời để nhà trai xuống Thái Bình cầu hôn.
"Mẹ tôi kể năm 13 tuổi, ông tôi nhận gả mẹ tôi cho người họ Dương thiệu. Năm 16 tuổi khi biết đưọc, mẹ tôi nhất định đòi ông tôi phải trả lại sêu ba năm (trả lại sêu tết chứ không trả lại trầu cau ?) . Vì mẹ tôi không chấp nhận cha mẹ đặt đâu ngồi đấy. Bà ngoại tôi bị cảnh năm thê bảy thiếp thật là đau khổ.
"Mẹ tôi ghét cay đắng quan lại xu nịnh, năm thê bảy thiếp, chế độ phong kiến. … Bác Hồ mang lại hạnh phúc thực sự cho phụ nữ cho nên phụ nữ rất biết ơn Bác Hồ kính yêu. Hồ Chí Minh là người có đạo đức vĩ đại nhất, đưa giới phụ nữ ra khỏi chế độ phong kiến hà khắc cổ hủ.
"Năm 1977 sau khi cha tôi mất được 2 năm Mẹ tôi viết" Ước mơ của em khi đôi tám xuân xanh là quyết chọn người tài đức mới trao thân. Nếu không gặp được nam nhi hào hùng đó thì ở một mình xuốt đời, Thế mà em đã mãn nguyện"
Và trang sau có nhắc tới Dương thiệu Tước, được tin do một bạn cũ nhắn từ Dà Lạt năm 1976, gặp Dưong thiệu Tước và bà Minh Trang lên chơi Đà Lạt, như nói qua về một người vô tình nhớ tới, không lấy gì làm quan trọng..
Người con gái bênh vực Bố Mẹ là một điều đáng khen, rất thông cảm. Bác Tước, vì bác là chi trên, cháu nội Dương Khuê chúng tôi gọi là Bác Cả Tước, không thể ví với người Cử nhân Luật và Tiến sĩ Văn Chương Đại học Montpelier, Bộ trưởng Giáo Dục 30 năm. Bác cuối cùng leo lên chức Chủ sự ban Âm nhạc trong Đài Phát thanh Sài Gòn, cả đời sống thanh bạch nhưng rất lương thiện. Chọn người tài đức, nam nhi hào hùng mới trao thân, có phải là chọn công hầu khanh tướng? Nhưng công hầu khanh tướng cổ nhân đã nói trên trần ai ai dễ biết ai, phải mấy chục năm mới biết.
Báo Công An đề cao Bác cũng là vì Bác tôi có tài đức gì đó, có mấy người được như vậy. Công An là "bạn dân, mũi nhọn và lá chắn của Cách Mạng" dân Hà Nội nghe thấy tiếng là khiếp sợ, vậy mà minh oan cho Bác tôi, chả phải khanh tướng một chút nào chăng.
Chúng ta đều biết rõ Nhạc sĩ Nguyễn văn Khánh sáng tác bài Chiều vàng ra sao, anh chàng si tình này thường đáp tàu hỏa thăm hôn thê miền mạn ngược,lần cuối cùng được thân nhân chỉ ra ngôi mộ mới đắp bên đồi thông. Cũng được biết anh chàng trung úy Nguyễn văn Đông suy nghĩ sao khi sáng tác Phiên gác xuân, anh buồn nhưng không bao giờ phản chiến như Trịnh công Sơn vì phải bảo vệ Bố Mẹ bị đấu tố là địa chủ, và Bố Mẹ người yêu bị trôi sông vì buộc tội địa chủ gian ác.
Nhưng Nhạc sĩ Dương thiệu Tước là một bí hiểm cho bao nhiêu nhà bình luận, sáng tác 200 bài mà hầu như bài nào cũng là mối tình trong trắng bất diệt trong dĩ vãng xa xa lắm, đẹp đẽ vô ngần nhưng tuyệt vọng đau thương. Có một quãng đời Dương thiệu Tước không bao giờ chia sẻ cùng ai, ngay cả vợ con hay bà con thân thuộc. Có lẽ vì quá đau thương. Chỉ chia sẻ cho âm nhạc, khi gặp lại những cảnh thân thuộc thời trẻ dại của mối tình đầu như Chùa Hương hay Bến Ngự.
Năm đó là đầu thập niên 1930 ở tỉnh lỵ Hưng Yên, chàng 15 tuổi và nàng 13. Chàng là con cụ Thương tá Dương tự Nhu sau này lên Bố Chánh và nàng là con cụ Tổng Đốc Vi văn Đinh. Tư dinh hai nhà gần nhau trước mặt là một hồ bán nguyệt rộng lớn chia đôi bởi môt đường đê nhỏ, hai hồ thông nhau bằng môt con lạch có môt cầu vồng sơn đỏ nối liền .Rất tĩnh mịch, rất nên thơ nhất là khi ánh trăng êm dịu toả xuống bát ngát..
Cầu đỏ trên hồ là nơi trẻ con tụ tập nô đùa, câu cá lúc hè bãi trường, chàng học trung học Hà nội, nàng học trường tiểu học tỉnh nhà. Họ quen nhau ở đó, nàng tuổi dạy thì và bắt đầu xinh đẹp còn chàng cao ráo khôi ngô, cái khác thường là nàng từ miền sơn cước tới, có giáo dục cầm kỳ thi họa kèm thêm là cưỡi ngựa bắn súng, hồn nhiên mạnh bạo chứ không thẹn thò bẽn lẽn như tiểu thư đồng bằng. Chàng là con trai độc nhất cụ Nhu có truyền thống âm nhạc từ Dương Khuê trở xuống. Cụ Nhu cũng như Dương Khuê nổi tiếng về văn nôm và ca trù sau này hậu sinh làng ca trù còn biết. Bác Tước được cụ truyền lại từ trống, phách và đàn đáy và ca ngâm văn thơ.. Năm 7 tuổi Bác tôi được thân phụ cho một cây đàn nguyệt nhỏ, sau đó là đàn bầu, đàn tranh và thập lục và sau này sử dụng 7 thứ đàn cả cổ nhạc lẫn tân nhạc.
Chàng sử dụng Tây Ban Cầm và Hạ Uy Di Cầm hay có tiếng ở Hà Nôi và trên cầu hồ bán nguyệt những khi gió mát trăng thanh chàng ca những bài nổi tiếng Tino Rossi và Josephine Baker, giọng ca ngọt như mía lùi. Việc gì xảy ra là phải xảy ra, chàng và nàng yêu nhau thắm thiết với mọi sự bồng bột và trong trắng của mối tình đầu. Họ Vi biết ngay và biết rõ cậu cả cháu nội Dương Khuê này, cao lớn mặt mày sáng sủa, tính nết hiền hậu nên chịu ngay. Cụ Tự Nhu mất sớm khi còn tại chức vì vậy mới trầu cau trao đổi và đôi trẻ chính thức đính ước, Bác Tước tôi chính thức được yêu một giai nhân bậc nhất Bắc Hà. Diễm phúc thay ông Bác tôi..
Bài "Vừng trăng sáng" là một bài ca duy nhất ca diễm phúc mà không có khóc than. Kìa vừng trăng sáng Chiếu in trên hồ Dưới là trăng nước Sóng lan nhấp nhô Mặt hồ rung rinh Dưới khung trời tím Có anh cùng em Chúng ta vui hòa trong một chiều thu Đắm say dưới trăng ".
Chàng dậy nàng ca hát " Trời xanh thắm "
Còn đâu như lúc xưa Ngày đôi chúng ta còn thơ So phim tơ trên thềm Anh hòa theo lời em Ngàn lời ca êm ái
Nhưng bầu trời mầu hồng êm ả đã có những mây đen kéo tới. Nhà gái dần dần biết là Bác tôi học Tú Tài chỉ là phụ, chính thực là học Âm Nhạc trường Ecole francaise de Musique en Extrême Orient tại Hà Nội, cùng với Nguyên xuân Khoát.Nguyễn xuân Khoát chuyên về Dương Cầm, ông Bác tôi chuyên về Tây Ban Cầm. Và Bà Mẹ vợ tương lai với trực giác rất nhạy cảm của Bà Mẹ đã nếm cảnh năm thê bảy thiếp của ông chồng, dần nhận ra nguy cơ cho cô con gái quý. Anh chàng này đẹp trai quá, đa tình quá, đàn hát hay quá, sẽ là một tai họa cho nữ giới nói chung cũng như ông nội nổi tiếng Bắc Hà khi trước.Và khi trường Ecole Francaise de Musique en Extrême Orient sau ba năm hoạt động phải đóng cửa vì kinh tế khủng hoảng là Bác tôi lâm vào cảnh nửa ông nửa thằng, xướng ca vô loài có người bên nhà gái đã chê như vậy. Vì nàng đẹp quá nổi tiếng quá nên ai cũng biết yếu điểm của chàng, bên họ Dương có những bà cô chua ngoa tuyên bố, Bác Tước mặt sáng như gương tầu mà mảnh bằng không có.
Rồi họ Vi thuyên chuyển từ Hưng Yên về Thái Bình, dinh Tổng Đốc Thái Bình cạnh nhà tôi, gần đến nỗi kẻ viết bài này lúc 4 tuổi một hôm quần thủng đít bắt chuồn chuồn tại bờ hồ sen sau nhà nghe có người kêu lên" Chuồn chuồn có cánh thì bay có thằng ỏng bụng thò tay bắt mày". tôi còn nhớ cái áo the đen và cái bài ngà trước ngưc, họ Vi có tiếng là hay dỡn. Vì gần như vậy và hai nàng đẹp nhất BắcHà nên nhà tôi lúc nghỉ hè sao mà đông các cậu lượn như đèn cù ở vườn sau trông ra Dinh Tổng Đốc.. Nhất là hai nàng học Tiểu Học trường tỉnh cùng các chị tôi. Nàng em được một ông chú tôi bám sát và thành công đến nỗi chàng đề nghị đổi tên nàng từ Phú ra Lan, đẹp hơn và nàng chấp thuận. Bác Tước cùng ông chú cộng tác sáng tác bài ca Ngọc Lan ca tụng hai nàng . Nhưng bài này phải tớì năm 1953 mới ra đời vì năm 1935 Bác Tước đại hoạn nạn tại Huế Trong gần 20 năm trời Bác Tước cố quên đi hai chữ Ngọc Lan.
Năm 1935 Nàng em vẫn phải bước lên xe hoa cùng một ông Nghè tây nghành Y, tôi đứng xem các bà khăn vành dây vàng áo vàng lũ lượt hàng hai bước vào Dinh đón dâu tưởng như cả triều đình Huế đã tới.
Bạn có thể hỏi tôi viết những chuyện này làm gì, chuyện chàng trai 19 tuổi nhìn ngườì yêu dấu bước lên xe hoa theo con người địa vị danh giá nhưng hơi già là chuyện nơi nào chả có, anh, tôi đều đã trải qua. Nhưng anh, tôi đâu có sáng tác được bài Ngọc Lan 50 năm sau dân Việt Nam còn ca, anh và tôi đâu có được lên báo Công An ca tụng. Họ ca tụng vì đến năm 2000 tình hình xã hội và đất nước bắt đầu có những bế tắc về tư tưởng, văn hóa, không khác gì những bế tắc năm 1930. Họ cần đến những con người có khả năng khai thông văn hóa dân tộc như Phạm Quỳnh và Dương thiệu Tước. Phạm Quỳnh thập niên 30 đặt vấn đề, yêu nước là chiến tranh chống Pháp hay mở mang trí tuệ đại chúng trước. Không có Quốc ngữ làm quốc văn, không có Văn Học Việt Nam thuần túy thì đừng nói tới yêu nước nữa. Âm Nhạc là bộ phận quan trọng của Văn Học, Dương thiệu Tước đảm nhận trách nhiệm của mình về Âm Nhạc, không có Phạm Quỳnh thì không có Tự Lực Văn Đoàn, không có Thế Lữ, Thạch Lam Nguyễn tường Long, Xuân Diệu và cả Tố Hữu nữa. Làm sao có Cách Mạng được. Không có Dương thiệu Tước thì không có Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy làm sao có Cách Mạng tháng 8 được. Nhờ có Phạm Quỳnh và Dương thiệu Tước Văn Học Việt Nam lần đầu tiên thoát khỏi quỹ đạo Văn Học Trung Quốc, và cũng thoát khỏi quỹ đạo Văn Học Pháp Quốc, gạt bỏ những hủ nho, hủ tây, và sau này hủ cộng nữa.Theo Phạm Quỳnh thì nhờ quốc ngữ, Văn Học Việt Nam có lợi thế hơn Trung Quốc. Chữ quốc ngữ nhân dân chỉ mấy tháng là đọc được sách, tiếng nói đồng nhất với chữ viết không như Trung Quốc, truyện Kiều được đọc tại những nơi nông thôn hẻo lánh nhất, không phải truyền khẩu như trước. Kim Vân Kiều vừa là một thứ Kinh Thánh, một áng văn chương tuyệt tác, vừa là một Tự Điển ghi chép mọi tình cảm và hiểu biết của dân Việt qua bao nhiêu thế kỷ. Quốc văn còn là truyện Kiều còn, truyện Kiều còn là nước Nam còn, Phạm Quỳnh khẳng định như vậy.
Phạm Quỳnh được Hội Nhà Văn Việt Nam phục hồi danh dự từ năm 2005, có những bài khảo cứu ở Hà Nội rất thán phục tầm nhìn xa của ông và tư tưởng rất vững vàng về văn minh Việt Nam, Pháp hay Trung Quốc. Báo Người Hà nội năm 2007 có bài của Nguyễn Ngọc nói "Phạm Quỳnh là người khổng lồ trí tuệ uyên thâm, hiểu sâu văn hóa phương đông, tự học mà chiếm lĩnh văn hóa phương tây rất cơ bản. Pháp văn của ông cực kỳ sang trọng và trong sáng…Thiết tha yêu dân tộc … Vấn đề ông đặt đến nay vẫn thời sự. ..Ám chỉ trả lại sự công bằng cho ông". Phạm Quỳnh có nhấn mạnh, nếu không có Văn Học độc lập tự chủ thì dù có Độc Lập cũng không giữ được nước.
Và đến nay Văn Học yếu kém, Âm Nhạc yếu kém , đạo đức yếu kém, giáo dục yếu kém vì vậy mới nhớ tới Phạm Quỳnh và Dương thiệu Tước.
Cả Phạm Quỳnh cùng Dương thiệu Tước đều tự học mà làm nên lịch sử, tìm được con đường ra khỏi bế tắc cho dân tộc vào thập niên 30. Các vị khoa bảng không làm được điều đó..
Năm 1934 Bác Tước tôi còn tràn ngập trong yêu đương và hạnh phúc. Chàng và Nàng nắm tay nhau thăm chùa Hương và nhân tiện qua thăm Vân Đình quê Chàng. Dĩ nhiên là dưới sự giám sát của bà Mẹ Nàng. Phải đến 1935, cùng gia đình Nàng đi thăm Tế Nam Giao ở Huế, và Bến Ngự ,sông Hương, mối tình như keo sơn gắn bó tan như mây khói, chỉ vì Nàng đẹp quá.
Cụ Tiên Điền Nguyễn Du nói, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Đáng lẽ cụ phải thêm chữ sắc vào đó. Người Pháp cũng có câu khi cô dâu đẹp quá là có biến.
Lễ Tế Nam Giao năm đó có vua Bảo Đại lần đầu tiên ra mắt quần chúng, nhiều kỳ vọng vào ông Vua tây học trẻ đẹp trai này. Danh nhân tài tử cả nước vô Huế coi Thiên Kiệu nhà vua đi từ cổng Ngọ Môn Hoàng Cung di qua Trục Thần Đạo thẳng tắp tới Đài Đàn Nam Giao 3 tầng, tam tài Thiên Địa Nhân. Dân chúng hai bên đường thấy nhà Vua ngồi kiệu, hai bên binh lính bồng súng hộ tống, đi trước có Đoàn vũ nhảy múa, có Ban Nhạc nhà Vua đánh trống thổi sáo và sau cùng là văn võ bá quan cùng long tượng.
Nhưng dân chúng cũng sửng sốt ngắm một căp giai nhân đẹp như thiên thần giáng thế. Chàng là Bác tôi, cao to như Bảo Đại, nhưng mặt mũi thanh tú như một ông Nghè chính cống, tóc đen mượt, môi đỏ thắm, miệng bao giờ cũng mỉm cười và đôi mắt cười theo. Còn Nàng thì thân hình mềm mại cân đối, trên cổ tròn trắng nuốt là khuôn mặt tươi đẹp như bông hoa ngọc lan nở rộ trong rừng Việt Bắc.
Một ông Nghè tây và bà chị ngây ngất nhìn Nàng và nhanh chóng quyết định. Họ đến chào hỏi gia đình họ Vi, họ cũng là vai vế Công Thần miền Bắc, chào hỏi Nàng vài câu lấy cảm tình và ngay hôm sau nộp đơn cầu hôn. Họ biết rõ Chàng và thân thế ra sao và nhược điểm Chàng. Họ nộp đơn khi đôi trẻ vừa nắm tay nhau đi thăm Bến Ngự.
Người ta nói trong chiến tranh và tình yêu, phải sử dụng mọi phương tiện để chiến thắng. Không có gì là xấu xa khi tranh dành một người đẹp, đẹp đến nỗi không có được một người thứ hai trên cả đất Bắc.
Họ Vi nhận thư cầu hôn, không trả lời có hay không nhưng 1 tấm hình Nàng đã được trao tay. Chưa có gì thay đổi nhưng con sâu đã vào trái cây.
Vì xã hội hồi đó không phải như hồi ông Tú Xương, chỉ cần biết vài chữ Pháp làm thông ngôn là "sáng ruợu xâm banh tối sữa bò" Các nàng đòi phi cao đẳng bất thành phu phụ. Ông Nghè tây là nhất vì lương tây chức vụ cao địa vị cao. Và họ Vi còn những suy tư đặc biệt, từ miền sơn cước tới đồng bằng đã khá lâu trên thực tế thay thế Hoàng cao Khải , họ Vi học được của Hoàng cao Khải nhiều kinh nghiệm quý báu. Quyền thế sau này trong tay mấy ông Cử ông Nghè tây bằng cấp cao, liên kết với họ có thể vạn đại dung thân, từ trào này qua trào khác.Không thể tin vào con trai vì sinh vào gia đình quyền thế hay giở chứng, cả hai họ Vi và họ Hoàng đều bị con trai hay cháu ruột sang Pháp đỗ đạt và gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Chỉ tin vào con gái và những chàng rể địa vị vững như bàn thạch thì sau này về già mới yên thân được.
Bà chị ông Nghè họ Nguyễn biết rõ như vậy, bà cũng là một gia trưởng cả hai họ Nguyễn và họ Phan. Theo như tác giả Hồi Ký, bà cũng là một Nghè ta, đậu Sư Phạm khóa đầu tiên và trở nên Giám Đốc trường Nữ Trung Học đầu tiên Hà Nội. Lương bà 120 đồng một tháng, bà tiêu 20 còn lại gửi sang Pháp nuôi hai em đậu ông Nghè, ông Trạng sư. Một gia trưởng can đảm đáng phục và tham vọng có thừa, thảo nào ông chồng bà làm Đại thần thời Pháp, thời Nhật và thời Xã hội Chủ Nghĩa. Hai Mẹ con ông Bác tôi sao mà địch được một Thiết Kế Gia đại tài như vậy.
Trở về Bắc sau chuyến thăm viếng Huế là mọi sự bất lợi dồn dập cho ông Bác tôi: rớt Tú tài lần nữa, ông nhận được tối hậu thư, có chịu làm quan tri châu không. ? Ai tưởng tượng được ông Nhạc sĩ tài ba nhất Hà thành đeo bài ngà, tự chôn vùi tại miền sơn cước. Ông Bác tôi từ chối. Nhà gái chỉ đợi có thế, trả lại trầu cau, ông Bác tôi gạt nước mắt giã từ Nàng di theo Nghiệp tổ Âm nhạc.
Rồi đến giai đoạn quên Nàng, cố quên đi. Nàng đã dậy Chàng tình yêu bồng bột nhất, đẹp đẽ nhất, nay Nàng lại dậy Chàng quên, quên hết đi. Nhưng Chàng không bao giờ quên, ngay từ 1938 đã có bài "Tâm hồn anh tìm em" Lòng anh giá băng trong bóng sương mờ.
Không bao giờ Chàng oán trách ai, Chàng biết rõ nguyên nhân chỉ vì Chàng có tài. Tiếng xưa :" Chiều thu nhớ nhung vì đâu Thắm đôi hàng châu Tiếc thay tài cao đành lỡ làng Ai đó tri âm biết cùng".
Phải đến năm 51-53, khi gặp được nàng Minh Trang, Bá Nha gặp được Tử Kỳ, Bá Nha không có Tử Kỳ thì đàn gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn. Chàng mới lấy lại thăng bằng tâm hồn, dám ngược xuôi cả tháng tại Sông Hương Bến Ngự. Cho ký ức trở lại những ngày vô cùng êm đềm và tàn nhẫn Huế 1935. Và sáng tác được Ngọc Lan và Đêm Tàn Bến Ngự. Trút gánh nặng trong tâm hồn suốt gần 2 thập niên.
"Nhưng thoáng nghe khúc ca Nam Bình sầu than như nức nở khóc duyên bẽ bàng Ai than ai thở đời vui chi trong sương gió Ai nhớ thương ai Đây lúc đêm tàn tình đã lạt phai vương vấn bao tình Ai rứt sao đành".
Ngọc Lan ( Nhạc sĩ nhấn mạnh hai chữ Ngọc Lan phải viết hoa) : "Tơ lòng dâng bao cùng nhớ thương".Hai bài này Bác tặng bà Minh Trang, Bà biết hết nhưng giả bộ không biết, Bà xứng đáng được tặng 2 bản nhạc này vì Bà xứng đáng chứ không phải Nàng cũ. Ông Bác tôi cuối cùng rất diễm phúc.
Tai họa lại tới năm 1975. Tố Hữu, con người lãnh đạo tư tưởng cả nước từ 1946, đuổi Bác tôi ra khỏi Viện Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn khi Bác là người duy nhất dậy Tây Ban Cầm ở Viện. "Nhạc sĩ Tư Sản, Phong Kiến, nhạc tán gái không giúp gì cho quần chúng lao đông". Đảng định đảy Bác tôi vào hố tiêu cực, "bỏ đói" như đã từng bỏ đói Phùng Quán, Trần Dần, Hữu Loan, Đoàn Chuẩn. Đã bỏ đói những ông Nghè tây như Nguyễn mạnh Tường, Trần đức Thảo vì các ông này nhớ lại khí thế của trí thức Pháp, dám khuyên Đảng coi trọng tự do và luật pháp.
Bà Minh Trang phải mang các con vượt biên để cứu sống bọn trẻ. Bác tôi ở lại kẹt thằng con trai học tập cải tạo.
Nhưng Đảng không ngờ các Nàng lại cứu sống Bác. Bà Cả và Bà Minh Trang gửi quà về nuôi. Và một Nàng nữa 22 tuổi, Nàng Nga, một cây đàn Tây Ban Nha có hạng tại Sài Gòn đã ra tay yêu mến nâng nưu ông thầy, thoát khỏi cơn cơ hàn, bàn tay mềm mại Nàng đã đánh bại Tố Hữu, Tố Hữu tưởng mọi sự đã an bài.
Cả ba Nàng mỗi Nàng yêu ông Bác tôi một vẻ. Vì ông đẹp cả người lẫn tính, không Bà nào bỏ ông dù tình huống khó khăn đến đâu chăng nữa, có lẽ mối tình đầu cũng không bao giờ quên ông đâu. Ông Bác tôi là người vô cùng hạnh phúc.


Nam Minh Bách
Virginia tháng 5 2010



Ghi chú của Sóng Việt.
Trong đoạn giữa có viết
Bạn có thể hỏi tôi viết những chuyện này làm gì, chuyện chàng trai 19 tuổi nhìn ngườì yêu dấu bước lên xe hoa theo con người địa vị danh giá nhưng hơi già là chuyện nơi nào chả có…
Chàng trai DTT sinh năm 1915, lúc đó, năm 1936, nhìn người yêu đi lấy chồng, tuổi là 21 tuổi chứ không phải 19 tuổi. (yêu nhau năm 1934, tan vỡ năm 1935, “nhìn” người yêu đi lấy chồng năm 1936).

Một chút tài liệu thu lượm trên Internet
Wikipedia
Tiểu sử Dương Thiệu Tước
Dương Thiệu Tước sinh ngày 15 tháng 5 năm 1915, quê ở làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong gia đình Nho học truyền thống, ông là cháu nội cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, nguyên Đốc học Nam Định.
Thuở nhỏ ông học ở Hà Nội, trong thập niên 1930 ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh... Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn nhạc "bài Tây theo điệu ta", những nhạc phẩm đầu tay của ông thường được viết bằng tiếng Pháp. Mặc dù theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm hồn dân tộc. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: „Theo tôi tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền“.
Ông vào miền Nam sinh sống từ năm 1954. Tại Sài Gòn ông làm chủ sự phòng văn nghệ tại Đài phát thanh Sài Gòn đồng thời được mời làm giáo sư dạy lục huyền cầm/Tây Ban Cầm tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Sau ngày nước Việt Nam thống nhất năm 1975, nhạc của ông bị cấm đoán và ông cũng bị mất chỗ dạy học tại trường Quốc Gia Âm Nhạc.
Vợ chính thất cũng là vợ đầu của ông là bà Lương Thị Thuần, hiện con cái đang sống tại Đức và Hoa Kỳ. Vợ sau của ông là Minh Trang, một ca sĩ nổi tiếng thập niên 1950, có con riêng là ca sĩ Quỳnh Giao. Đầu thập niên 1980 ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga tại quận Bình Thạnh và được bà chăm lo cho tuổi về chiều.
Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây, sau thời đổi mới, nhạc của ông đã được phép lưu hành lại trên cả nước Việt Nam.

Vài hang về bản nhạc Ngọc Lan của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước
Ngọc Lan
Ngọc Lan, dòng suối tơ vương,
mắt thu hồ dịu ánh vàng
Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng,
tà mây cánh phong, nắng thơm ngoài song
Nét thắm tô bóng chiều, giấc xuân yêu kiều, nền gấm cô liêu
Gió rung mờ suối biếc, ý thơ phiêu diêu
Ngón tơ mềm chờ phím ngân trùng, mạch tương lai láng
Dáng tiên nga, giấc mơ nghê thường lỡ làng
Ngọc Lan, trầm ngát thu hương,
bờ xanh bóng dương, phút giây chìm sương
Bông hoa đời ngàn xưa tới nay
Rung nhạc đó đây cho đời ngất ngây
Cho tơ trùng đàn hờ phím loan
Thê lương mây nước, sắt se cung đàn
Ôi tâm hồn nghệ sĩ chìm trong sương thắm
Nhớ phút khuê ly, hồn mê tuyết hoa Ngọc Lan
Mờ mờ trong mây khói, men nồng u ấp,
duyên hững hờ dần dần vương theo gió
Tơ lòng dâng bao cùng thương nhớ...

Bản nhạc Ngọc Lan chính thức ra đời năm 1953 sau khi ông lấy bà Minh Trang (1951),
Bà Minh Trang trong cuộc nói chuyện với ông Lê Văn Phúc gần đây không hề xác nhận rằng bài Ngọc Lan làm cho bà.

" ... Trong các nhạc phẩm của Dương Thiệu Tước, có một bài mà người ta cứ bảo rằng thì là bài này Dương Thiệu Tước viết để riêng tặng Minh Trang. Đó là bài Ngọc Lan. Thầy có biết gì không?
- Làm sao mà tôi ở trong ngõ hẻm này lại biết được chuyện tầy trời đến như thế nhỉ !
- Thế thì em hỏi ai bi chừ?
- Cậu vẫn hỏi chị Minh Trang thì bây giờ cậu lại nhấc phôn hỏi xem bà ấy giả nhời ra sao?
- Vâng, để em hỏi nhá!
(Quay tô lô phôn)
- A-lô! A-lô! Thưa chị Minh trang đấy ạ! Vẫn Cai em đây. Em mí lị thầy Nguyễn Túc bàn đến bài Ngọc Lan thì nêu ra câu hỏi rằng: "Có phải bài này anh viết tặng chị không ạ?"
Đầu giây bên kia, chị Minh Trang cười mà đáp rằng:
- Tôi cũng chả biết nữa! Chắc người ta thấy tên tôi là "Ngọc Trâm" thì đoán là bài "Ngọc Lan" của Dương Thiệu Tước viết tặng Ngọc Trâm chứ gì! Cai tôi ớ cổ ra, không biết nói năng, hỏi han gì thêm nữa. Nhưng cứ cho đó là câu trả lời lịch sự, khiêm nhường của chị Minh Trang mà đoán mò rằng bài này anh viết tặng chị. Bản "Ngọc Lan" thật thanh thoát, nhẹ nhàng, rất mực quý phái đáng yêu.
(Trích trong Báo Cỏ Thơm)
**
Ca sĩ Quỳnh Giao trong một bài viết (Dương Thiệu Tước và…Ngọc Lan) cũng viết không rõ bài hát viết để tặng ai, dù bà Minh Trang, thân mẫu Ca sĩ Quỳnh Giao hiện ở gần ngay cạnh.(Ca sĩ Quỳnh Giao là con riêng của bà Minh Trang)

Dương Thiệu Tước để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm trang nhã của loại bán cổ điển, như “Áng Mây Chiều”, “Buồn Xa Vắng”, “Mơ Tiên”, “Bến Xuân Xanh” hay “Thuyền Mơ”... Bài nào cũng là viên ngọc quý trong kho tàng nhạc Việt. Riêng một bài thì rõ là một đóa hoa quý: “Ngọc Lan” tiếp nối ẩn dụ của “Dưới Ánh Trăng” đã nói ở đầu. Nhưng thanh thoát bội phần.
Một số người ưa chuyện hậu trường thì cho rằng Ngọc Lan được Dương Thiệu Tước sáng tác cho Minh Trang (thân mẫu của người viết bài này!) Ðấy là tiểu tiết hay tiểu truyện không cần nói trong tác phẩm. Ðúng sai thì xin để lại cho những người trong cuộc. Dương thiệu Tước viết bài này tại đất thần kinh năm 1953, khi cùng thân mẫu của người viết về Huế thăm đại gia đình đã xa lâu rồi.
Nếu “Dưới Ánh Trăng” là ca khúc tả cảnh để tả tình, để ánh trăng ân ái với đóa hoa, thì “Ngọc Lan” tả đóa hoa mà để nói về tình yêu thanh khiết.
Những người không hiểu lời, ngoại quốc chẳng hạn, hoặc nếu chỉ nghe phần nhạc có hòa âm công phu, thì vẫn cảm nhận được nét đẹp lả lướt mà không lả lơi, phóng khoáng mà không phóng túng và nhất là giai điệu rất trang trọng, quý phái. Trước vẻ đẹp của hoa, người nghệ sĩ chỉ có thể trầm trồ như vậy!
Viết trên cung Mi giáng Trưởng, dìu dặt khoan thai theo tiết điệu “ba bốn” của một bài luân vũ chậm, ca khúc Ngọc Lan có ba nhạc đề.
Phần đầu tha thiết dịu dàng mở ra như một đóa hoa ngọc lan mới nở và phả ra hương thơm ngoài hiên nắng. Từ cánh hoa trắng muốt như bạch ngọc, nhạc sĩ chuyển qua phần hai, ngợi ca cả thanh lẫn sắc. Hóa ra hoa chỉ là người. Mà phải là người rất đẹp. Qua đến nhạc đề thứ ba, tác giả chuyển từ cung Mi giáng Trưởng sang Si giáng Trưởng rồi qua Sol thứ trước khi trở lại Si giáng Trưởng để chuyển về nhạc đề đầu tiên. Nhạc đề này diễn tả sự hôn mê rung động của người ngắm hoa. Tác giả khiến ta nghĩ rằng trước vẻ đẹp tinh khiết của hoa, người nghệ sĩ phải lùi lại, ngậm ngùi nhìn nét đẹp như hương thơm, cứ thoảng dần trong gió và để lại nơi đây, trong cõi đời này, biết bao thương nhớ.
Nhạc thuật gợi lên nào thanh, nào sắc nào hương và nỗi tình si của người không dám sỗ sàng bước tới, mà chỉ chìm dần trong làn hương thắm do đóa hoa vương lại.
Về cách diễn tả thì khi trở về nhạc đề thứ nhất, người ca sĩ sẽ hát cho đến cuối nhạc đề hai bằng hai câu kết tuyệt vời, một trên cung Trưởng, một trên cung Thứ và đáp lại bằng Mi giáng Trưởng lâng lâng, đầy thương nhớ. Ngày xưa, trong các đài phát thanh của Sài Gòn, khi hát câu cuối, người ca sĩ phải lên đến nốt Sol cao ngất, ở ngoài dòng kẻ. Nhưng đó là chuyện ngày xưa!
Ngọc Lan là ca khúc kén người hát lẫn người nghe. Muốn hay thì trước hết phải có hòa âm ra hồn, mà về hòa âm không phải nhạc sĩ nào cũng diễn tả được nét thanh quý của tác phẩm. Không chỉ là một bài hát, Ngọc Lan là một bài thơ, một bức họa và một đóa thơm lãng mạn. Ca khúc này được nhiều người trình bày, nam lẫn nữ, nhưng có lẽ thích hợp với giọng nữ hơn là nam. Ðiều này hơi lạ vì nội dung gợi ý về bậc nam tử thấy người ngọc trong “giấc xuân yêu kiều” bỗng mê đắm mà... lùi lại để tơ vương trong tâm tưởng. Ngợi ca đóa hoa như vậy thì phải là nam tử chứ?
Về nhạc thì vậy, về lời từ thì thật đáng thương cho Dương Thiệu Tước, cháu nội cụ Dương Khuê.
Ông viết nhạc đã hay mà dùng chữ rất tài cho một hậu thế lại coi thường chữ nghĩa và nỗi dụng công của ông. Khi viết “ngón tơ mềm, chờ phím ngân trùng, mạch tương lai láng”, ông dồn hết thi họa và nhạc vào một câu làm người ứa lệ trước cái đẹp. “Mạch tương lai láng” là một điển cố nói về giọt lệ. Nhưng đời sau lại hát ra “mạch tương lai sáng”. Dẫu có buồn thì cũng chưa đáng khóc bằng “mạch tuôn” hay “mạch tuông lai láng”!
Dễ hiểu hơn đấy, nhưng khiến tác giả không hiểu gì nữa... Thương cho một đóa ngọc lan.
(Quỳnh Giao)




Sóng Việt
5/21/2010