Wednesday, June 30, 2010

Bài viết về Nhà Thơ Hữu Loan

Tưởng Nhớ Nhà Thơ Hữu Loan
(1916-2010)
&
Những bài thơ của Hữu Loan
Sóng Việt Đàm Giang sưu tầm

Nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, vừa qua đời ngày 18 tháng 3 năm 2010.
(NCTG) Theo tin từ Việt Nam, vào hồi 19 giờ ngày 18-3-2010, thi sĩ Hữu Loan, tác giả bài thơ nổi tiếng “Màu tím hoa sim”, thành viên phong trào Nhân văn - Giai phẩm, đã từ trần tại nhà riêng ở thôn Vân Hoàn (xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa), thọ 95 tuổi.
Chỉ trong vòng 24 giờ đồng hồ đã có hàng ngàn bài viết trên toàn thế giới nói về ông, và chỉ trong vòng một tuần (ngày 25 tháng 3, 2010) mà những bài viết đã đạt đến mức độ không kể hết.
Nếu mở Google ra và đánh hai chữ Hữu Loan vào thì độc giả có thể thấy trong Google ghi nhận có hơn hai triệu links nói về Hữu Loan và bài thơ đã làm ông nổi tiếng.
Bài thơ được nói đến đã nhiều, chính ông lúc sinh thời đã ngâm bài thơ và được thu âm phát tán đi khắp năm châu.
Vài hàng viết về ông ở đây coi như chút lòng tưởng nhớ và khâm phục ông, một nhà thơ bất khuất , khí khái và có tinh thần rất mạnh.

Những bài thơ được biết đến.

Trước khi Hữu Loan làm bài thơ Màu Tím Hoa Sim khóc người vợ vắn số chết sớm, ông cũng đã làm một số bài thơ, hầu như những bài thơ của ông không được lưu chép cẩn thận, và hình như ông cũng không cho chuyện lưu trữ thơ là quan trọng. Có lẽ đó là cá tính của ông.
Những bài thơ được biết đến: Cũng những thằng nịnh hót, Đèo Cả, Đêm, Màu tím hoa sim, Hoa lúa, Ngày mai, Thánh mẫu hài đồng, Tình Thủ đô, Yên mô.Ngoài bài Màu Tím Hoa Sim, ba bài thơ đã được thân hữu quen biết ông chép lại và phổ biến là:

Đèo Cả
Hữu Loan (1947)

Núi cao vút/ Mây trời Ai Lao / sầu / đại dương
Dặm về heo hút / Đá bia mù sương/ Bên quán Hồng Quân/ người / ngựa/ mỏi
Nhìn dốc ngồi than/ thương ai/ lên đường
Chầy ngày/ lạc/ giữa suối
Sau lưng / suối vàng / xanh / tuôn
Dưới khe / bên suối độc / cheo leo/ chòi canh/ ven rừng hoang
Những người/ đi / Nam Tiến
Dừng lại đây/ giữa / đèo núi quê hương
Tóc tai/ trùm/ vai rộng
Không nhận ra/ người làng
Rau khe/ cơm vắt/ áo/ pha màu/ sa trường
Ngày thâu/ vượn hót
Đêm canh/ gặp hùm / lang thang
Gian nan lòng không nhợt
Căm hờn trăm năm xa
Máu thiêng trôi dào dạt
Từ nguồn thiêng ông cha

Giặc/từ trong/ tràn tới
Giặc/từ Vũng Rô/ bắn qua/Đèo Cả/ vẫn/ giữ vững
Chân đèo/ máu giặc/ mấy lần/ nắng khô
Sau mỗi trận thắng
Ngồi bên suối đánh cờ
Kẻ hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu

Suối mang/ bóng người
Trôi những về đâu....

Hữu Loan (hay 1946 ?)

Tình Thủ đô
“Được viết vào đầu những năm 50 của thế kỷ trước – chắc chắn là sau chiến dịch biên giới (1950) và trước chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) - với một xu hướng cách tân rõ rệt, trường ca Tình Thủ đô là một trong số những bài thơ tự do hiếm hoi trong Kháng chiến chống Pháp thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của dòng Thơ mới (1939 - 1945). Tiết tấu hoạt, gân guốc, câu ngắn (thường chỉ hai, ba âm tiết), sắc gọn như mũi chông, hình tượng bất ngờ cắm phập vào cảm quan: “Đoàn Giải phóng quân đi/ Như gại dao trên đường nhựa... Nắng loá tường vôi/ Chữ cào xương nhức nhối...”, những điểm chấm phá gợi cảm như tranh Seurat: “Mắt em biếc/ Một chiều xưa/ Quan Thánh/ Cổ Ngư/ Bạch Mai/ Bóng liễu/ Tháp Rùa...”. Ngoài giá trị nghệ thuật cao – chuyện này còn phải bàn dài dài khi có dịp - bài thơ còn đặc biệt thân thiết với thế hệ chúng tôi bởi lẽ nói cách nào đó, nó là một phần của cái quá khứ mà bọn tôi vẫn coi là thời hoàng kim của cách mạng. Cùng với những câu thơ, khổ thơ được hồi nhớ, những kỷ niệm cũng trỗi dậy, chúng tôi như sống lại cả một thuở xa xưa”….(Dương Tường)

Trên những chuyến xe bò/ Đi về đường Trèm Vẽ
Việt Bắc âm u/ Đường dài Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư/ Đoàn xe đi
Chở nặng tâm tư/ Một góc nhà/ Một hè phố
Mắt em biếc/ Một chiều xưa
Quan Thánh/ Cổ Ngư/ Bạch Mai/ Bóng liễu Tháp Rùa
Một thằng bạn/ Một thằng con/ ở lại
Khấp khểnh xe đi/ Vấp vào đêm tối
Thủ đô/ Ngày mùa thu
Thủ đô/ Cờ bốc lửa/ phố dài
Cờ bốc lửa/ công trường Nhà Hát lớn.

Thủ đô/ Ngày Tổng Khởi Nghĩa
Ngày Thủ đô chờ đón/ Đoàn Giải phóng quân về
Qua cầu Long Biên/ Sông bóng người đi
Vai cao rộng/ Mặc núi rừng Việt Bắc
Ai về Thủ đô/ Khăn thầm nước mắt
Quốc ca mình/ Đoàn lính Việt đầu tiên
- Có người làng đi/ Trong đoàn lính trẻ.
Thủ đô/ Tuần Lễ Vàng
Hà Nội dãy dọc toà ngang
Quên giai cấp/ Trong căm thù dân tộc
Thủ đô/ Ngày Tuyên Ngôn Độc Lập
Thủ đô/ Ngày Tổng Tuyển Cử đầu tiên
Những ngày Thủ đô/ Như ộc máu triền miên
Máu những người Tây giết/ Chảy về từ lịch sử
Tiếng hát/ Vùng lên/ Xích xiềng rơi vỡ.
Thủ đô/ Ngày Tàu trắng/ Quốc dân đảng
Và thực dân/ Nghênh ngang phố chật
Bắt cóc/ Tống tiền/ Khiêu khích/ Bắn người
Đám ma đi/ Cờ đỏ phủ quan tài
Phố Ôn Như Hầu/ Những người bị giết/ Xác quăng đầy hố
Đoàn Giải phóng quân đi/ Như gại dao trên đường nhựa.
Thủ đô/ Quân lệnh đêm
Lựu đạn đen ngòm trong nắm tay
Rình sau mái ngói
Nắng loé tường vôi/ Chữ cào xương nhức nhối:
Thanh Niên Sống Chết Với Thủ Đô!
Mắt em thiếu nhi/ Hồ trăng Trung Thu:
Các anh hãy giữ non song/ Cho chúng em!
Bàn tay lớn/ Nhận lòng tin bé nhỏ.
Cụ Hồ hỏi anh em bộ đội:– Các chú liệu giữ được Thủ đô
Bảy ngày?Một rừng nắm tay
Thét tiếng:– Thề với Bác!
Lửa cháy Thủ đô/ Chân trời hấp hối
Xác thằng bạn/ Xác thằng con
Trên hè phố Thủ đô/ Giặc khởi hấn rồi!
Đường tản cư khuya/ Lửa toé sắt bánh xe bò
Một Quyết tử quân hy sinh/ Là một đoàn giặc chết/ Một Quyết tử quân hy sinh
Và bắt đầu từ đó/ Những ngày đêm Thủ đô
Tàn sát/ Khu Đồng Xuân/ Lính Trung đoàn Thủ Đô
Đâm giặc trên bàn thịt/ Như chọc tiết bò
Đuổi giặc/ Vật lăn trên nóc chợ
Hai tháng giết nhau/ Một đêm thủ đô
Có đoàn Quyết tử/ Cắt máu tay ăn thề
Ngõ vắng Thủ đô/ Những đơn vị rút đi
Góc phố Thủ đô/ Bóng những người ở lại/ ánh hoàng hôn lên
Liệm tròn huyết thệ/ Người Quyết tử quân/ cuối cùng.
Những người dân Thủ đô/ Về với giặc ở chung
Phải đốt cờ đỏ sao vàng/ Thức đêm may cờ ba sắc
Và những sớm mai/ Tay xót xa/ Đem treo cờ giặc trước nhà
Ai về Hà Nội/ Thấy Hà Nội xa hoa
Thấy Hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội/ Giặc xây thêm ngục tù
Xe Phòng Nhì/ Chở từ ngoại ô/ Từng đoàn người xiềng tay/ Về qua phố tối.
Ai về Hà Nội/ Thấy Hà Nội xa hoa/ Thấy Hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội Ngã-Tư-Sở/ Hà Nội Khâm-Thiên
Đèn khuya chảy vàng/ Những hộp đêm/ Mọc theo tiếng giày đinh
Của đoàn Tây mũ đỏ/ Tiếng xe tăng viễn chinh
Chiều đi bụi phố/ Và giữa trưa Hà Nội yên lành/ Hồi còi rú thất thanh
Kêu như người tắc họng/ Một xác Việt gian/ Ngã tư/ nắng đọng
Lũ lượt kéo nhau về Hà Nội/ Từng đoàn thiêu thân/ Mang trong mình định mệnh
Mủ đờm nhớt lạnh/ Và uế khí hôi tanh/ Sợ ánh sáng và gió lành
Tôi thành thép/ Cánh tay người Kháng Chiến
Từ vùng tự do/ Có người vào nội thành/ Ném chứng thư Việt Minh
Trên dòng song/ Chào thằng bạn chiến khu/ Mà phục tấm lòng.
Đêm Thủ đô/ Rét đến/ Trong chăn bông
Nghe lạnh chiến khu Vũ/ Cơm gia đình/ Đũa bát nhớ người đi.
Và những sớm mai/ Từng đoàn phi cơ giặc/ Chở tóc tang đầy trong thân sắt
Ra những miền quê xanh
Tiếng bom dội về/ Chuyển Hà Nội mênh mông
Tìm người Hà Nộ/ Rung lên như đất chuyển
– Những người Thủ đô tản cư
– Những đồng bào kháng chiến.
Những em mùa thu/ Đi trong đoàn thiếu nhi
Lớn lên/ Tìm đường chiến khu Việt Bắc.
Những người ngày xưa/ Ghét Việt Minh/ Bắt đầu chờ đợi
Bao giờ Việt Minh/ Mới đánh vào Hà Nội/ Cho ánh sáng xa hoa/ Vỡ rơi thành bóng tối
Trên xác người máu me/ Ngổn ngang gạch ngói?
Đến bao giờ Việt Minh/ Mới đánh vào Hà Nội?
Những người bắt sống Le Page/ và Charton
Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê
Những binh đoàn biên giới
Đang chuyển về Trung Du
Như đi từng dãy núi
Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.
Mắt vời xa/ Cô gái Hà Nội tản cư/ Đẹp trong màu áo vải quê mùa
Sẽ còn những ai/ Trong đoàn quân trở lại
Ngày thủ đô chiến thắng tưng bừng?
Em về Thủ đô/ Chân phố cũ/ Ngập ngừng
Khoảng cuối 1950 - đầu 1951
(Dương Tường & Mạc Lân ghi lại theo trí nhớ. Tác giả Hữu Loan đã xem lại)

Hoa Lúa
Nếu bài Màu Tím Hoa Sim ông làm để khóc vợ đầu, thì bài Hoa Lúa ông làm để tặng người bạn đời đã sát cánh cùng ông hơn nửa thế kỷ.
“Hữu Loan kết hôn hai lần, lần thứ nhất vào đầu năm 1948 với bà Lê Đỗ Thị Ninh, là con gái của nguyên Tổng thanh tra nông lâm xứ Đông Dương Lê Đỗ Kỷ, Đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946.
Tháng 5 năm 1948, bà Ninh mất khi mới 16 hay 17 tuổi và bài thơ Màu tím hoa sim ra đời. Sau đó ông kết hôn với bà Phạm Thị Nhu, một nông dân, bài thơ Hoa lúa (1955) chính là bài thơ viết tặng người vợ thứ hai này.”

Em là con gái đồng xanh
Tóc dài vương hoa lúa
Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
Giếng ngọt, cây đa
Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm
Nhạc quê hương say đắm
Trong lời em từng lời
Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một
Em ca giữa đồng xanh bát ngát
Anh nghe quê ta sống lại hội mùa
Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ
Có dân ca quan họ
Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ
Cầm tay trao một miếng trầu
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay
Quê hương ta núi ngất, sông đầy
Bát ngát làng tre, ruộng lúa
Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương
Xa em năm nhớ, gần em mười thương
Còn bàn tay em còn quê hương mãi
Em mang nguồn ân ái
Căng ngực trẻ hai mươi
Và trong mắt biếc nhìn anh
Em gái quê si tình
Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn…
Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt
Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp
Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu
Ta đi đầu sát bên đầu
Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.
Hữu Loan (1955)

Màu Tím Hoa Sim
Nói đến bài Màu Tím Hoa Sim, người viết nhờ đến cách đây hơn 5 năm, bài thơ này đã đuợc Giáo sư Thomas D Lê dịch sang Anh ngữ và phổ biến trên trang nhà Lê World vào cuối tháng 11 năm 2004. Nhưng chỉ trong vòng hai tuần tin một doanh nhân ở Việt Nam đã mua đứt bản quyền bài thơ nên bản dịch sau đó đã đuợc chính chủ nhân Le World xóa bỏ ra khỏi trang Le World, dù ông LVC, người mua bản quyền bài thơ đã xác định là vì bài thơ dịch đã hoàn tất trước khi hợp đồng hoàn tất nên không có vấn đề chi. Mọi nỗ lực gửi bài thơ dịch đến ông Hữu Loan cũng không thành công.
Năm năm đã trôi qua, nhà thơ Hữu Loan đã ra đi, bài thơ dịch sang Anh ngữ đã được chính chủ nhân bản dịch mang phổ biến trở lại.

Màu tím hoa sim
(Khóc vợ Lê Đỗ-thị-Ninh)

Nàng có 3 người anh
đi bộ đội
những em nàng
có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
yêu nàng
như tình yêu em gái
ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giầy đinh bết
bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
cưới nhau xong là đi
*
Từ chiến khu xa
nhớ về ái ngại
lấy chồng đời chiến binh
mấy người đi trở lại
nhỡ khi mình không về
thì thương người
vợ chờ
bé bỏng
chiều quê
*
Nhưng không chết
người trai khói lửa
mà chết người
gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
má tôi ngồi bên mộ con
đầy bóng tối
chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh
vây quanh
*
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi ! giây phút cuối
không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần
*
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ
nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa ... !
*
Một chiều rừng mưa
ba người anh,
từ chiến trường Đông Bắc
biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về
rờn rợn nước sông
đứa em nhỏ nhớn lên
ngỡ ngàng
nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng
chân mộ chí
* * *
Chiều hành quân
qua những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
dài
trong chiều không hết
màu tím hoa sim
tím
chiều hoang biền biệt
* * *
Có ai hát như từ chiều
ca dao nào
xưa xa
“Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh chưa có
mẹ già chưa khâu”
* * *
Ai hát vô tình hay
ác ý với nhau
chiều hoang tím
có chiều hoang biết
chiều hoang tím
tím thêm màu da diết
nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà,
vợ anh mất sớm...
* * *
Màu tím hoa sim
tím tình tang
lệ rớm...
* * *
Ráng vàng ma và
sừng rúc điệu quân hành
vang vọng chập chờn
theo bóng những binh đoàn
biền biệt hành binh
vào thăm thẳm
chiều hoang màu tím
* * *
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ
dù lâu...
(Hữu Loan 1949)

Bổ túc.
Hữu Loan lấy cô Lê Đỗ Thị Ninh ngày 6 tháng 2, 1948.
Hữu Loan đuợc tin cô Ninh chết vì tai nạn ngày 29 tháng 5, 1948.
Hũu Loan làm bài thơ Màu Tím Hoa Sim vào có lẽ vào những tháng đầu của năm 1949.
Nguyễn Bính phổ biến bài thơ Màu Tím Hoa Sim trên báo Trăm Hoa ở Hà-nội vào năm 1956.

Dưới đây là phần trích dẫn bài viết của Violet và Trịnh Hưng đăng trên Vietcyber nói về thời gian Hữu Loan lấy vợ và lý do Hữu Loan gọi mẹ cô Ninh là “má” thay vì là “mẹ”. .

Vì sao có bài Màu Tím Hoa Sim

Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Nhà nghèo nhưng chăm học nên ông đỗ được bằng tú tài 1, sau đi dạy ở các trường tư thục để mưu sinh.
Ông tham gia cách mạng từ năm 1936, sau được điều lên làm Uỷ viên văn hoá trong Uỷ ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa.
Từ những ngày đầu kháng chiến, ông phụ trách tờ báo chiến sĩ của Quân khu 4. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, ông được mời ra làm trong ban biên tập văn nghệ.
Bài thơ "Màu tím hoa sim" được Hữu Loan viết năm 1949. Bài thơ tuy chỉ kể chuyện riêng của một người mà hình ảnh và mỹ cảm lại thoát ra khỏi "cái tôi" để đến với nhiều người, tạo nên sự đồng cảm sâu xa, chan hoà trong thế giới tâm linh huyền diệu.
Vào khoảng năm 1937-1938, cậu học trò Hữu Loan rời quê lên tỉnh, học tại trường trung học ở thị xã Thanh Hóa. Tại đây, Hữu Loan làm gia sư tại nhà ông Lê đỗ Kỳ, Tổng thanh tra nông lâm Đông Dương, về sau là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vợ ông Kỳ, bà Đới Thị Ngọc Chất, rất thương yêu Hữu Loan nên nhận làm con nuôi. Còn cô học trò nhỏ Lê Đỗ Thị Ninh lúc đó mới 8 tuổi, kém thầy chừng 13-14 tuổi, rất mến thầy và luôn quấn quít bên thầy.

Năm 1941 Hữu Loan lên Hà Nội thi đỗ bán phần tú tài rồi trở về Thanh Hóa dạy hoc. Năm 1947, trong buổi họp khai mạc "Tuần lể vàng", Hữu Loan đọc một bài diễn văn hùng hồn kêu gọi lòng yêu nườc và hy sinh của toàn dân, cô Ninh từ trong hàng ngũ bước ra tháo bỏ vòng xuyến để quyên góp cho chính phủ.
Sau đó Hữu Loan nhập ngũ, phụ trách báo chiến sĩ và vẫn đươc coi như con cái trong nhà ông Kỳ, bà Chất, thỉnh thoảng vẫn đi về thăm cha mẹ nuôi và "em nuôi". Thế rồi tình yêu của Loan đối với cô Ninh chợt đến lúc nào không hay và cha mẹ cô Ninh cũng vun vén vào cho đôi trẻ. Ngày 6-2-1948 một đám cưới đơn giản giữa anh chàng Vệ quốc quân và cô "em nuôi" được tổ chức trong sự vui mừng và tình thân yêu của gia đình và bè bạn…
Ngày 29-5-1948, khi đang là Trưởng ban tuyên huấn của Sư đoàn 304 đóng ở Thọ Xuân, Thanh Hoá, Hữu Loan bỗng được tin sét đánh: Cô Lê Đỗ Thị Ninh đã chết! Nhà thơ Vũ Cao kể: "Tôi còn nhớ cái buổi cách đây đã hơn 40 năm, ngồi trong một quán nhỏ ở Thanh Hóa, anh (Hữu Loan) báo cho tôi biết cái tin đột ngột: Ninh vừa mất. Bàn tay anh cầm cốc nước run lên bần bật, nước bắn tung toé xuống bàn, mặt anh tái xanh.

Cái tin sét đánh ấy khiến Nguyễn Hữu Loan tan nát cõi lòng. Nỗi đau dồn nén ấy sang năm sau -1949- thì chín muồi để bật thành lời, thành một bài thơ bất tử.

Bài thơ được Hữu Loan cất mãi trong túi áo, cho đến một hôm, Vũ Tiến Đức, biên tập cũ của Hữu Loan, tình cờ lấy được, đem đọc cho bè bạn, cho bà Ngọc Chất nghe, thế là bài thơ được phổ biến nhanh chóng. Về sau Nguyễn Bính đem bài thơ ấy đăng lên báo Trăm Hoa ở Hà Nội (1956) mà tác giả không hề hay biết.

(trích một phần trong bài viết của Violet đăng trong Vietcyber)

Tôi chỉ gặp Hữu Loan có một lần khoảng năm 1992, 1993. Anh cùng tôi đến dự cuộc họp mặt văn nghệ ở nhà một người bạn. Tôi thấy anh vui vẻ, hay cười nhưng không nói nhiều, không tranh nói, không muốn làm người nổi nhất đám, anh em hỏi gì anh mới nói. Tối ấy tôi nhớ anh nói hai chuyện:
một: bà mẹ vợ anh là người Nam, ông Kỳ vào làm việc trong Nam và cưới bà, nên trong Thơ anh "Má tôi ngồi bên mộ con.." chứ không phải "Mẹ tôi..",
hai: khi bài thơ Mầu Tím Hoa Sim được phổ biến trong quân đội, anh bị kiểm thảo vì bài thơ làm mất tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, anh kể trong những cuộc họp, anh bị nhiều văn nghệ sĩ -- như Tô Vũ -- chỉ trích kịch liệt, tối ngủ, chính mấy kẻ chỉ trích anh nặng lời nhất lại mò đến chỗ anh nằm, khều anh, nói nhỏ:" Loan ơi..Thơ mày hay quá. Đọc cho tao chép.."
(trích trong bài viết của Trịnh Hưng đăng trong Vietcyber)

Trong Thi Ca Tình Sử Việt Nam, mối tình của Hữu Loan chắc chắn sẽ sống mãi với thời gian qua bài thơ của ông.


Những bài thơ khác của Hữu Loan

(Sóng Việt sưu tầm)

Cũng những thằng nịnh hót

Dưới thời kỳ Pháp thuộc
Những thằng nịnh hót nghêng ngang.
Lưng rạp trước quan Tây/ Bắc vợ như thang/ Chân trèo danh vọng;
Đuôi vợ chúng đi/ Lọt theo đầu chúng.
Bao nhiêu nhục nhằn/ Nhục mất nước muôn phần
Nhục cùng nước/ với những thằng nịnh hót

Một điều đau xót/ Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ Dân chủ Cộng hòa
Những thằng nịnh còn thêng thang đất sống
Không quần chùng, áo thụng/ Không thang đàn bà
Nhưng còn / thang lưng/ thang lưỡi.
Những mồm không tanh tưởi, / Ngậm vòi đu đủ
Trợn mắt / Phùng mang/ Thổi vào rốn cấp trên:
" Dạ, dạ, thưa anh,.../ Dạ, dạ, em, em,..."
Gãi cổ/ gãi tai :
" anh quên ngủ / quên ăn / nhiều quá! "
"Anh vì nước / vì dân/ hơn tất cả/ từ trước đến nay. "
Chân xoa/ và xoa tay/ Hít thượng cấp/ cứ thơm / như múi mít.
Gọi như thế là/ phê bình cấp trên / kịch liệt
Gặp cấp trên chủ quan/ Mũi như chim vỗ cánh
Bụnh phềnh như trống làng
Thấy mình đạo đức tài năng hơn tất.

Như thế là chết rồi: Quân nịnh tha hồ lên cấp/ Như con gì nhà gác lên thang.
Còn muốn lên thủ trưởng cơ quan/ Còn đi đây đi đó
Lưỡi và lưng/ Lắm thằng gian khổ

Chúng nói ở đâu/ Thối thóc thuế
Mục kho hang/ Phong trào suy sụp
Nhân dân mất cắp đang giữa ban ngày/ To cánh và to vây,

Những ai không nịnh hót/ Đi, mang cao liêm sỉ con người.
Chúng gieo họa, gieo tai/ kiểm thảo/ hạ tầng.../ ...Còn quy là phản động
Có người đã chết oan vì chúng.
Vẫn thiết tha yêu chế độ,/ đến hơi thở cuối cùng.
Nguy hiểm thay/ Thật khó mà trông/ Chúng nó ngụy trang
Bằng tổ chức, / Bằng quan điềm nhân dân/ bằng lập trường chính sách.

Chúng nó còn thằng nào/ Là chế độ chúng ta chưa sạch/ Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết mọi thằng.
Những người đã đánh bại xăm lăng/ Đỏ bừng mặt vì những tên quốc xỉ/ Ngay giữa thời nô lệ
Là người, chúng ta/ không ai biết/ cúi đầu.

9-1956
Hữu Loan

Nếu Anh Không Đi (*)

Nếu anh ra đi/ Mẹ già anh khóc / Trai thời loạn li/ Thương con khó nhọc
Nếu anh ra đi / Người vị hôn thê / Những giọt nước mắt / Đọng trên hàng mi
Nếu anh không đi / Mẹ già anh khóc / Trai thời loạn li / Mà không ra đi
Mẹ già thương con / tóc trắng / Nhưng mai cờ về / Chiến thắng / mà con không về
Mẹ thà như / lá rụng / chiều quê / Và ngày mai / Con về / Cỏ vàng nấm đất
Nhưng khi nước mất / Vì vị hôn thê / Mà con không đi
Nếu anh không đi / Người vị hôn thê / Mặt nghiêng / tay che / Đêm thương lời thề
Thà đợi người đi / Già / trên lời thề
Nhưng khi nước mất / Trai làng ra đi/ Mà anh không đi!
Hữu Loan (1950)
(Trong tập 45 bài thơ của Hữu Loan do Nguyễn Hữu Đán, người con trai út của Hữu Loan sưu tầm và ghi chép lại)
(*) Dương Tường ghi tên đề tựa là Tòng Quân

Thánh mẫu hài đồng

“Nhà thơ Hữu Loan suốt đời mình luôn khắc ghi hình bóng người vợ đầu. Sau bài thơ Màu tím hoa sim bốn mươi hai năm, ông lại làm bài thơ này hồi tưởng lại đêm tân hôn đầu tiên của mình. Bài thơ vẫn đúng chất hồn và giọng điệu Hữu Loan, đầy ắp cảm giác cảm xúc đôi lứa tình yêu. Đây còn được gọi là bài Tục Màu tím hoa sim.”

Em ngả cánh tay còn nhiều/ ngấn sữa
Cho ta làm gối gối đầu/ đêm tân hôn
Sao lại không chính là tay ta/ đỡ trước lấy vai nàng
Ta râu ria như râu thép gai/ như xương chổi
Gân guốc sù xì phong sương/ như một gốc cây rừng
Ta lo lắng sợ tay nàng gãy
Tay nàng mảnh mai như một/ nhánh huệ trong bình!
Nhưng lạ thay/ nàng ghì đầu ta như/ chẳng hề hấn chuyện gì!
Chỉ có chuyện là/ ta thấy ta càng lúc/ càng thêm nhỏ bé trong/ vào ngực măng tơ
Chà dụi/ Rúc tìm/ Tham lam/ Cuống quýt/Ngẩn ngơ/ như một hài nhi/khát/ mẹ
Nàng càng riết chặt/ ta càng thấy bé
Vòng tay nàng đánh đai/ Nàng thì thào thổn thức/ bên tai
- Anh của em!
- Anh vô cùng lớn của em!
Nhưng trái lại/ Anh đang rất bé.
Nàng:
- Anh ơi anh!
Ta:
- Mẹ ơi mẹ!
Bằng một giọng học nói/ Hài nhi bập bẹ/ (trong hơi thở trộn nhau/ bốc men)
- Tôi đối thoại hay là/ vô thức nói.
*
Sau đêm ấy là/ em đi/ đi/ mãi!
Em đi tím đất chiều hoang
Ta như mất mẹ/ khóc/ tang/ hai lần!
*
Xin kính cẩn hôn chân
Tất cả những đấng gái Việt Nam
Đã sớm mang chất/ mẹ/ loài người.
*
Em trong mẹ/ Mẹ trong em/
Em/ ngôi thánh mẫu hài đồng

Hữu Loan 1991

Ngoài những bài thơ trên, còn một số bài thơ chưa ghi lại trọn vẹn, không được mang lên.

Kết Luận

Và để kết thúc tưởng không còn chi hay hơn là đọc lại những hàng thơ của chính ông nói về ông.
Tôi, cây gỗ vuông chành chạnh suốt đời
Ðã làm thất bại âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc
thế nào
thì lăn lóc.
Chân lý đấy
hỡi
rìu
bào
phó mộc


Tác giả những hàng chữ này xin trân trọng cảm ơn tất cả văn nhân thi sĩ và những người ái mộ thơ và nhà thơ Hữu Loan, đã mang những tin tức về ông lên mạng lưới vi tính và đó là những nguồn để có bài viết này.

Sóng Việt Đàm Giang
18 April 2010

Saturday, June 19, 2010

Nhớ Bố



Một ngày cho bố

Bố thương mến của con,

Đã hơn ba mươi lăm năm qua, không tuần lễ nào, tháng năm nào mà con không nhớ đến bố, ngày nào con cũng đi ngang qua hình bố trên bàn thờ thờ cúng tổ tiên, và con vẫn không khỏi ngậm ngùi ân hận không được nhìn thấy bố một lần chót trước khi bố nhắm mắt lìa đời.

Là con gái út, bố dành cho con nhiều độc quyền, nhiều ưu tiên, và cho con nhiều thời giờ hơn với các anh chị của con.
Bố bận rộn những ngày con còn nhỏ khi bố phải làm việc cực khổ để nuôi gia đình, vàchúng con không bao giờ thiếu thốn vật chất. Lớn lên vào trong Nam, bố dành nhiều thì giờ hơn và những cuối tuần bố đã dắt chúng con đi chơi khắp nơi mà con nhớ nhất là những buổi đi dạo trong sở thú, đi coi gánh xiệc với những trình diễn hồi hộp mà con nhắm mắt nắm chặt tay bố vì sợ. Khi mẹ bảo con học đàn thì bố muốn con học nấu cơm tây, nên con đã có đặc ân của cả bố và mẹ.
Con đã hàng giờ ngồi say mê nhìn bố vẽ những bức tranh thủy mạc mực tầu mài nghiên ống nước, kỷ niêm bốn bức tranh Mai Lan Cúc Trúc của bố vẫn còn đây...
Những ngày bố đau vì bệnh suy tim mỗi ngày một gia tăng, mẹ thường bảo con mang thức ăn vào phòng riêng cho bố vì bố phải ăn nhạt và uống thuốc. Bố không chịu ăn nhạt và mẹ biết con có thể năn nỉ bố để bố siêu lòng.

Ngày bố và mẹ rời Việt Nam đi du ngoạn và bố nói bố sẽ đi vào nhà thương bên Âu Châu để BS chẩn đoán và trị bệnh, con không ngờ đó là lần chót chúng con thấy bố.

Bố đã giã từ cõi đời sau một bữa ăn trưa và trong giấc ngủ buổi trưa tại nhà thương, nhẹ nhàng êm ái . Như vậy đó !! Thật khó cho con chấp nhận sự thật. Tại sao? Tại sao? Bố còn quá trẻ, bố mới 56 tuổi !!

Con vẫn nhớ bố, con vẫn ngậm ngùi...Bố ơi, dù con đã trưởng thành, dù con đã thành công trên trường đời, trong tâm tưởng con vẫn là đứa con gái nhỏ bé được bố cưng chiều suốt một đời. Bố mãi mãi là thần tượng, là người cha yêu kính, là một nghệ sĩ có ảnh hưởng đến sự phát triển cá tính của con.

Con luôn luôn yêu thương kính trọng bố. Con của bố.

G.
6/16/2002

Sunday, June 13, 2010

George Sand_Lucile-Aurore Dupin



Lucile-Aurore Dupin
George Sand
(1804-1876)

Sóng Việt Đàm Giang

“Một ngày nào đó, thế giới sẽ biết đến tôi và hiểu tôi; nhưng nếu ngày đó không tới thì cũng không thành vấn đề, tôi đã mở một con đường cho những phụ nữ khác.” George Sand (1)

Bạn thân mến,

Một sự tình cờ, khi trả lời bạn lúc này tôi ra sao, đang bận làm chi, và tôi ngoài những chuyện kể thông thường có nhắc đến việc đang đọc hai cuốn sách nói về nhà văn nữ George Sand. Tôi không ngờ điều này đã gây hứng thú cho bạn và kết quả của sự trao đổi trên phương diện văn chương này đã mang lại nguồn hứng cho tôi để viết về George Sand.

Bạn có cho hay tháng Năm nay ở Pháp, ngày 1 và 8 tháng 5, 2010, đài truyền hình có chiếu một cuốn phim gồm hai phần, kể một phần cuộc đời của George Sand không trên khía cạnh văn chương hay những mối tình của GS mà nói về tài quán xuyến của GS tại Nohant, nơi mà cuộc đời của George Sand đã gắn liền với và cho đến hiện tại là nơi an nghỉ ngàn thu của bà và gia đình của bà.
Tưa đề của phim là Sand và Fanchette, với Fanchette là nhân vật được George Sand bao bọc, va nuôi dưỡng. Không được xem và không biết cuộn phim với nội dung tiểu thuyết này ra sao, nhưng làm tôi nghĩ xem người thiếu nữ này có thể là ai?

Trong quảng cáo cho cuộn phim: vào tháng 7 năm 1846, một cô gái mang tên Fanchette được Sand mướn đến để làm công việc bếp núc và sau đó vì cảm thương cô gái này mà Sand đã điều đình mua cô về làm công việc nhà cho bà. Bà đã dậy dỗ cô ta và xem cô ta như là một người rất gần gũi để bà tâm sự. Chuyện cho hay Fanchette là một nhân chứng đặc biệt và đôi khi đồng loã chứng kiến những bất hòa, những gây gỗ cãi nhau giữa Sand với Chopin, với người tình, với cô con gái tên Solange. Phim đuợc quay không phải ở Nohant mà tại Salvanet, gần Limoges.

Fanchette là ai?
Nếu Fanchette là một cô gái giúp việc được Sand dậy đọc và viết trong phim dựa theo tài liệu thì có thể là cô gái giúp việc tên Luce (Lucette) Caillaud. Sand đã nhắc đến tên Lucette Caillaud và giải thích lý do bà dạy Lucette học trong một lá thư gửi cô con gái bà, Solange, sau khi Solange viết thơ trách móc Sand đã không chú ý đến cô mà lại chú ý đến cô bé giúp việc nhà. (George Sand. Elizabeth Harlan, Solange and Chopin, page 217, chapter 20). Nhưng ngoài một lá thư được biết đến này, Lucette không hề đưọc Sand nhắc đến nữa. (2)

Cô gái thứ hai được Sand nhắc đến rất thường trong nhiều lá thư được chính thức công bố, đó là Augustine Brault. Vậy Augustine Brault là ai?
Augustine Brault là người bà con họ xa của bà Simone Victoire, mẹ của Sand. Bố Augustine là thợ may, mẹ Augustine là một người giai cấp bình dân. Sau dịp hè năm 1844 mà bà Sand đã mời họ đến chơi thì Sand có ngỏ ý với bố mẹ Augustine là bà muốn nhân Augustine là dưỡng nữ và muốn tài trợ cho Augustine được học chữ, bà đã toại nguyện sau khi trả cho bố mẹ Augustine một số tiền. Trong những thư từ được công bố, bà cho biết bà muốn Augustine làm bạn với con bà, nhất là cô con gái Solange. Năm 1846 Solange được 17 tuổi, con trai Sand, Maurice 24 tuổi và Augustine 21 tuổi. Nhưng có lẽ bà có một ẩn ý khác đó là bà muốn gán Augustine cho con trai bà, mặc dù lúc đó Maurice vẩn còn đang yêu Pauline Garcia (vợ Viardot), và chỉ xem Augustine như một người em đáng yêu.
Như vậy nhân vật giả tưởng trong phim Sand và Fanchette có lẽ căn cứ lỏng lẻo trên Augustine Brault.

Bạn cũng như tôi, chúng ta biết George Sand qua những ngày còn mài đũng quần ở Trung học với La Petite Fadette hay La Mare au Diable, mơ hồ biết tác giả George Sand là một người đàn bà có nhiều cá tính mạnh, đàn ông tính, ưa mặc quần, và hút thuốc, một hiện tượng lạ trong thế kỷ mà Sand hiện hữu. Và thêm chút nữa Sand là nữ văn sĩ có liên hệ tình cảm với thi sĩ Alfred Musset, và nhạc sĩ Chopin.
Đúng là bạn với tôi đã không chú ý đến gia tài văn chương đồ sộ mà bà đã lưu lại cho hậu thế, về lập trường chính trị, về tài quán xuyến gia trang Nohant ở vùng Berry hay tình bằng hữu thắm thiết của bà với rất nhiều văn nhân nghệ sĩ thời đó. Cũng vì thế mà bây giờ tôi cố gắng tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của George Sand.

Lucile-Aurore Dupin (3)

Lucie- Aurore Dupin sinh ngày 01/07/1804 tại vùng đồng quê Nohant, vùng Berry miền trung nước Pháp (Aurore sinh đúng vào năm Napoléon lên ngôi hoàng đế). Sinh ra trong một dòng dõi quí tộc, cha là một sĩ quan quân đội Napoléon, nhưng mồ côi cha lúc 4 tuổi (cha chết vì bị té ngựa) và được bà nội nuôi nấng ở lâu đài Nohan, Aurore được gửi vào tu viện Augustines chuyên dành cho giới quý tộc để học latin và những môn khoa học.
Khi trở về Nohant sau thời gian học ở tu viện, người có ảnh hưởng nhiều đến cá tính của Aurore là gia sư Jean Louis François Deschartres, một người đã dậy dổ bố Aurore từ khi ông mới 11 tuổi. Qua sự dậy dỗ của Deschartres mà Aurore quen với lối mặc quần để cưỡi ngữa phóng chơi khắp đồng ruộng trang trại vùng Berry và từ đó lối trang phục này đã theo Aurore suốt đời.
Năm 18 tuổi, 1822 Aurore làm vợ Nam tước Dudevant, và có hai con, một trai, một gái. Nhưng cuộc tình này, chỉ kéo dài được tám năm rồi chấm dứt vào cuối năm 1830 (lúc đó Aurore 26 tuổi). Sự thỏa thuận giữa Dudenant và Aurore là Dudenant chăm sóc con trai, Aurore chăm sóc con gái và Aurore sống một nửa thời gian ở Paris, một nửa ở Nohant.
Đầu năm 1831 lên sống ở Paris, Aurore trở thành người tình của nhà văn Jules Sandeau và hợp tác với Sandeau để viết cuốn tiểu thuyết Rose et Blanche. Cuốn Hồng và Trắng này được phát hành vào tháng 12, năm 1831với bút hiệu là Jules Sand. Aurore lấy một phần tên và họ của người tình để làm bút hiệu cho mình.
Cuối năm 1831 Aurore trở về Nohant và mài miệt viết văn cùng quán xuyến việc nhà Aurore có cho Sandeau biết nàng cần không khí tự do thoải mái để viết văn và sự ràng buộc với Sandeau làm Aurore ngột ngạt không sáng tác được
Aurore trở lại Paris vào mùa Xuân 1832 với cuốn tiểu thuyết Indiana và đứa con gái ba tuổi rưỡi.
Mối tình của Aurore với Sandeau cũng chỉ được một thời gian ngắn. Aurore chia tay với Sandeau vào tháng 3 năm 1833. Năm 1832, Aurore cho xuất bản tiểu thuyết Indiana với bút hiệu George Sand (Aurore bỏ chữ Jules thay vào đó là chữ George và giữ lại chữ Sand). Ngay lập tức cuốn Indiana gây được tiếng vang. Và năm 1833 là cuốn Lélia. Cuộc đời George Sand bắt đầu bước sang một giai đoạn mới.
Ký hợp đồng với tạp chí Revue des Deux Mondes, một tờ báo có tiếng, George Sand viết không ngừng không nghỉ, bà thường viết từ nửa đêm đến sáng, ngủ từ sáng đến trưa mới dậy. Và từ Paris vào mùa xuân năm 1833, mối tình đầy sóng gió giữa Sand và Alfred de Musset bắt đầu xẩy ra.
Cuộc đời của George Sand rất phức tạp và có liên hệ đến nhiều văn thi nhạc sĩ đương thời. Chúng ta tạm ngừng ở thời gian Sand đang có người yêu là Musset.

Với 244 tựa đề sách mang tên bà gồm 90 tiểu thuyết, truyện kể, truyện ngắn, 20 vở kịch, 10 quyển sách về cuộc đời mình và hơn 20,000 bức thư … .
Với một văn phong phong phú, hài hòa và hùng biện, những tác phẩm của bà làm độc giả phải ngưỡng phục. Một số tác phẩm của George Sand đã viết về thiên nhiên, đồng quê với một lối viết rất trong sáng dễ cảm gây rất nhiều cảm tình với người đọc.Văn hào Flaubert đã viết rắng rất khâm phục tài kể chuyện của George Sand, các nhà văn như George Eliot, Dostoeivski nói về ảnh hưởng của bà đối với những sáng tác của họ, v.v…

Một số tiểu thuyết và kịch bản

Rose et Blanche (1831, with Jules Sandeau), Indiana (1832), Valentine (1832), Lélia (1833), Andréa (1833), Mattéa (1833), Jacques (1833), Kouroglou / Épopée Persane (1833), Leone Leoni (1833), Simon (1835), Mauprat (1837), Les Maîtres mosaïtes (1837), L'Oreo (1838), L'Uscoque (1838), Spiridion (1839), Un hiver à Majorque (1839), Pauline (1839), Horace (1840), Consuelo (1842), La Comtesse de Rudolstadt (1843, a sequel to Consuelo), Jeanne (1844), Teverino (1845), Le Péché de M. Antoine (1845), Le Meunier d'Angibault (1845), La Mare au diable (1846), Lucrezia Floriani (1846), François le Champi (1847), La Petite Fadette (1849), Les Maîtres sonneurs (1853), La Daniella (1857), Elle et Lui (1859), Jean de la Roche (1859), L'Homme de neige (1859), La Ville noire (1860), Marquis de Villemer (1860), Mademoiselle La Quintinie (1863), Laura, Voyage dans le cristal (1864), Le Dernier Amour (1866, dedicated to Flaubert), La Marquise (1834).

Kịch bản
Gabriel (1839), François le Champi (1849), Claudie (1851), Le Mariage le Victorine (1851), Le Pressoir (1853, Play), French Adaptation of As You Like It (1856), Le Marquis de Villemer (1864), L'Autre (1870, with Sarah Bernhardt).

Người đàn bà dũng cảm
Có thể viết George Sand là người đàn bà dũng cảm, dám đi tiên phong trong nhiều vấn đề xã hội, nhất là vấn đề giải phóng phụ nữ. Sự dũng cảm của Sand đã gây nhiều phản ứng lợi có, hại có.
Với những người chỉ trích, phê bình bà, George Sand đã viết:
“Một ngày nào đó, thế giới sẽ biết đến tôi và hiểu tôi; nhưng nếu ngày đó không tới thì cũng không thành vấn đề, tôi đã mở một con đường cho những phụ nữ khác.”

Nhưng các tác phẩm của George Sand không chỉ thuần tuý miêu tả thiên nhiên hay thuộc loại kể chuyện mà còn mang những tiếng nói thâm thuý thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, bác ái, đặt nặng vấn đề giải phóng phụ nữ. Những nhân vật nữ trong tác phẩm của bà thường là những con người cá tính mạnh, cuơng trực, vượt lên nghịch cảnh để chống lại sự bất công trong xã hội.

Là người đương thời với các đại thi hào như Victor Hugo, Balzac và Flaubert, v.v… nhưng George Sand không được nhắc đến nhiều trong thế kỷ 20 như ở thế kỷ 19. Cho đến nay, phần đông vẫn chỉ biết Sand qua một vài tác phẩm, nhưng nhà văn Victor Hugo, trong một lá thư gửi cho George Sand vào ngày 19 tháng 06,1875, đã viết “bà là người tạo ra những tác phẩm tuyệt vời, bà là người đứng đầu trong giới phụ nữ, bà có một chỗ đứng duy nhất, trên phương diện nghệ thuật, không chỉ ở thời đại đương thời, mà ở trong tất cả mọi thời đại…bà đã làm vẻ vang cho thế kỷ và cho Pháp quốc chúng ta”.

Năm 2004, nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của George Sand, nước Pháp đã cho ấn hành loại tem 0.50 euro với hình Sand bên góc trái tòa nhà của bà ở Nohant để tưởng nhớ và vinh danh người nữ văn sĩ tài ba này. (4)

Sóng Việt
21 May 2010

1-George Sand. Trong Ma Blibliothèque. Truy cập May 19, 2010 từ
http://www.livres-online.com/-Sand-George-.html
2-Harlan E. (2005). George Sand. Yale University Press.
3-George Sand . Trong Wikipedia, the free encyclopedia. Truy cập May 19, 2010 từ http://en.wikipedia.org/wiki/George_Sand
4--Timbres de France 2004. Trong L’Encyclopédie libre. Truy cập May 19 2010 từ http://fr.wikipedia.org/wiki/Timbres_de_France_2004

La Belle Dame sans Merci_John Keats


Tranh họa của Arthur Hughes


Người Đẹp Tàn Nhẫn
La Belle Dame sans Merci - John Keats

Sóng Việt

La Belle Dame sans Mercy (Người Đẹp Tàn Nhẫn) nguyên thủy là tên một trường ca viết năm 1424 của nhà thơ Pháp Alain Chartier (1385-1433). La Belle Dame sans Mercy với nhiều bản chép khác nhau nhưng tựu chung kể chuyện một tình nhân đau khổ và người đẹp tàn nhẫn có trái tim cứng rắn hơn cẩm thạch.
Vào cuối tháng Tư, 1819, nhà thơ Anh thuộc trường phái lãng mạn John Keats đã viết một bài thơ thể điệu dân giả mang tên La Belle Dame sans Merci (bài thơ nguyên tác của Alain Chartier mang đề tựa La Belle Dame sans Mercy) với nội dung khác biệt, gồm 12 đoạn thơ, mỗi đoạn gồm 4 dòng.
Bài thơ kể lại cuộc gặp gỡ giữa một chàng hiệp sĩ với một người đẹp. Một hôm, khi lang thang trên đồng vắng chàng gặp một người thiếu nữ có ánh mắt hoang dại. Nàng dẫn chàng đi vào động tiên. Họ đã có một ngày hạnh phúc chứa chan. Rồi nàng ru chàng hiệp sĩ đi vào giấc ngủ. Khi tỉnh giấc, thì chàng hiệp sĩ thấy mình đơn độc trên đồi lạnh. Và sau đó chàng cứ lang thang vùng đồng vắng đã gặp người đàn bà đẹp để cố tìm lại bóng hình cố nhân (1), (2). Bài thơ được viết dưới dạng kể chuyện chàng hiệp sĩ trả lời câu hỏi của người kể chuyện.
Bài thơ La Belle Dame sans Merci của John Keats sau đó đuợc chuyển tiếp sang hội họa, và cả âm nhạc, Người đẹp trong bài thơ này trở thành đối tượng trong tác phẩm của một số họa sĩ theo trường phái hội họa thời trước Raphael ở Italy như: John William Waterhouse, Arthur Hughes, Walter Crane, Thomas Francis Dicksee, Frank Cadogan Cowper, v.v…

La Belle Dame sans Merci

Nguyên tác

La Belle Dame sans Merci, 1819
Oh what can ail thee, knight-at-arms,
Alone and palely loitering?
The sedge has withered from the lake,
And no birds sing.
*
Oh what can ail thee, knight-at-arms,
So haggard and so woe-begone?
The squirrel's granary is full,
And the harvest's done.
*
I see a lily on thy brow,
With anguish moist and fever-dew,
And on thy cheeks a fading rose
Fast withereth too.
*
I met a lady in the meads,
Full beautiful - a faery's child,
Her hair was long, her foot was light,
And her eyes were wild.
*
I made a garland for her head,
And bracelets too, and fragrant zone;
She looked at me as she did love,
And made sweet moan.
*
I set her on my pacing steed,
And nothing else saw all day long,
For sidelong would she bend, and sing
A faery's song.
*
She found me roots of relish sweet,
And honey wild, and manna-dew,
And sure in language strange she said -
'I love thee true'.
*
She took me to her elfin grot,
And there she wept and sighed full sore,
And there I shut her wild wild eyes
With kisses four.
*
And there she lulled me asleep
And there I dreamed - Ah! woe betide! -
The latest dream I ever dreamt
On the cold hill side.
*
I saw pale kings and princes too,
Pale warriors, death-pale were they all;
They cried - 'La Belle Dame sans Merci
Hath thee in thrall!'
*
I saw their starved lips in the gloam,
With horrid warning gaped wide,
And I awoke and found me here,
On the cold hill's side.
*
And this is why I sojourn here
Alone and palely loitering,
Though the sedge is withered from the lake,
And no birds sing.

Bản đầu tiên được Keats sáng tác ngày 21 tháng 4 năm 1819. Bản hiệu đính theo đề nghị của Leight Hunt ra mắt trong The Indicator, ngày 10 tháng 5 năm 1820. (3)

Người Đẹp Tàn Nhẫn

1
Hỡi chàng hiệp sĩ có điều chi xẩy đến
Mà một mình lang thang buồn bã xanh xao
Cỏ lác đã héo úa bên hồ kề cạnh
Chẳng có tiếng chim ca hát trên cao
2
Hỡi chàng hiệp sĩ có điều chi xẩy đến
Mà quá hốc hác như kẻ nặng sầu đau
Tổ chú sóc cho mùa đông đã đầy ắp
Và mùa gặt hái cũng đà hết từ lâu
3
Ta thấy người vầng trán xanh như huệ
Với khổ đau và sương rịn đầm đìa
Sắc diện mặt mất màu hồng đôi má
Coi sao nhợt nhạt héo úa thế kìa
4
Tôi đã gặp trên đồng một nàng đài các
Đẹp vô cùng, một tiên nữ diễm kiều
Tóc như suối gót hài nàng bước nhẹ
Và đôi mắt thật hoang dại thần kỳ
5
Tôi kết vòng hoa đặt lên đầu nàng đôi
Tròng cổ tay và quàng cả vòng eo
Nàng nhìn tôi như thể đà yêu đậm
Rên rỉ dễ thương lời thật ngọt ngào
6
Tôi bế đặt nàng lên yên chiến mã
Và cả ngày nào có thấy chi đâu
Suốt lô trình nàng nghiêng đầu hát nhẹ
Bài ca thần tiên êm ái tràn đầy
7
Nàng cho tôi cội nguồn hương dịu ngọt
Và mật hoang, thực phẩm thật lạ kỳ
Với ngôn ngữ lạ lùng nàng đã thốt
-“Yêu anh em thật sự yêu anh rồi”.
8
Nàng dẫn tôi vào hang động ái ân
Nghe tiếng nàng thổn thức rên đớn đau
Và tôi khép đôi mắt nàng hoang dại
Bằng nụ hôn bằng những nụ hôn dài.
9
Cũng nơi đó nàng ru tôi vào giấc ngủ
Và tôi đi vào mộng - Than ôi! chuyện xẩy ra!
Giấc mơ cuối cùng mà tôi đã từng mộng
Một mình tôi đang lạnh lẽo trên sườn đồi
10
Tôi thấy vua, thấy hoàng tử xanh mét
Tất cả đều nhợt nhạt như nhau
Họ hò hét – “Người đẹp không thương người
Tàn nhẫn bỏ mi làm nô lệ.”
11
Trong choạng vạng tôi thấy bờ môi đói
Miệng mở lớn thật khiếp đảm kêu gào
Và chợt tỉnh để thấy mình đơn độc
Một mình tôi đang lạnh lẽo trên sườn đồi
12
Vì thế đấy nên tôi còn lưu lại
Lảng vảng đây mình ủ rũ xanh xao
Dù cỏ lác bên hồ đà héo úa
Và cũng chẳng nghe tiếng chim hót trên cao.

Sóng Việt phỏng dịch

Bàn luận
Sau đây là vài hàng chủ quan bàn về nội dung bài thơ. Sự phân tích tâm lý bài thơ không nằm trong khuôn khổ bài viết này.

Người đọc thấy chàng hiệp sĩ đang cô đơn buồn bã trong cảnh vật tiêu điều, nhà thơ kể cho độc giả thấy cỏ úa, hồ khô cạn nước, và không có chim ca hát (chẳng có vật sống). Tuy cảnh vật tiêu điều nhưng chàng hiệp sĩ vẫn muốn ở đó. Ta có thể hình dung là chàng hiệp sĩ ở đó vì có một sự kiện nào đó đã xẩy ra, và vì thế mà chang lang thang đến nơi này để thoát ra khỏi cái cuộc sống thực tế não nề đau khổ và thay vào đó là một thế giới hoang đuờng đẹp đẽ hơn. Bởi cốt tránh cái thực tại chán chường, chàng đã dùng óc tưởng tượng của mình để tạo nên một thế giới mà sự ao uớc ham muốn của chàng có thể thực hiện đuợc. Chàng tưởng tượng chàng có một tình yêu với một người đàn bà đẹp, một người cho chàng cái cảm giác được ham muốn và hãnh diện. Trong thế giới thật chàng hiệp sĩ xanh xao xanh xao ốm yếu, nhưng trong thế giới ảo khi chàng gặp người đàn bà đẹp thì chàng trở nên một người có sức mạnh và chủ động như kể lại bằng một giọng hùng hồn là đặt nàng lên yên ngựa, lắng nghe nàng hát. Người đẹp đã làm chàng quên trạng thái cô đơn và cho chàng tình yêu chàng khao khát đón chờ. Chàng làm vòng hoa cài đầu, vòng tay và trên thân nàng nữa. Chàng cho ta cái ý nghĩ mơ hồ đây là một thế giới nào đó, một thế giới ảo tưởng. Chàng miêu tả người đẹp như là một nàng tiên, cho người đọc cái cảm tưởng nàng không thuộc về thế giới trần tục vì nàng có cái nhìn hoang dại, có ngôn ngữ lạ kỳ.
Một thế giới liêu trai huyền bí chăng? Đúng thế: một người đẹp như tiên chợt đến khiến chàng hiệp sĩ can đảm tiến tới bước đầu. Nhưng rồi chàng không chủ động được nữa mà dần dần trở nên lệ thuộc vào hành động của nàng. Hãy nghe chàng hiệp sĩ kể: nàng dẫn chàng vào hang động ái ân, cho chàng tuyệt đỉnh đam mê làm nàng rên rỉ thổn thức, rồi nàng vỗ về chàng vào giấc ngủ và rồi chàng thiếp vào cơn mộng. Trong cơn mộng, chàng thấy những người hoàng tộc có những cặp môi đói, há hốc gào thét cảnh báo cho chàng biết nàng là một người không biết thương tiếc ai sẽ rời bỏ chàng, biến chàng thành nô lệ trong tư tưởng. Thức giấc chàng hiệp sĩ như trở lại thực tế, một thực tế phũ phàng khiến chàng nghĩ đến thân phận mình và nhận thức mình đã sống trong thế giới ảo tưởng. Nhưng tại sao chàng không rời bỏ ảo tưởng mà trở về thực tế được? Phải chăng chàng vẫn khao khát được trở lại với cơn mộng và hưởng được cảm giác sung sướng đã một lần trải qua? Vẫn buồn bã đấy nhưng chàng vẫn mang hy vọng và không muốn rời bỏ nơi hoang vu thiếu sự sống này. Câu trả lời của chàng hiệp sĩ mang lại cho độc giả sự suy nghĩ và kết luận tùy thuộc vào cảm nhận của từng cá nhân.

John Keats
Vài hàng tiểu sử (4)

John Keats (31 October 1795 – 23 February 1821) – nhà thơ Anh, người cùng thời với Shelley, Byron, một trong những thi sĩ tiêu biểu của trường phái lãng mạn Anh thế kỷ XIX.
John Keats sinh ở Moorgate, London, là con trai lớn của Thomas Keats và Frances Jennings Keats, thuộc gia đình khá giả.
Năm 1804 bố mất, mẹ đi lấy chồng khác ngay sau đó nên các con ở với bà ngoại. Năm 1810 mẹ chết vì bệnh lao phổi.
Từ năm 1803-1811 Keats học ở trường tư, năm 1811 học ngành y ở King's College London. Thời gian này Keats đã rất thích thơ ca, nên dù tốt nghiệp ngành y nhưng Keats lại theo đuổi sự nghiệp thi ca. Năm 1817 Keats cho in tập thơ “Poems”, năm sau in tiếp trường ca “Endymion”. Bài thơ La Belle Dame sans Merci làm năm 1819. Năm 1820 Keats in tập thơ cuối cùng.
Keats mất ở Italy vì bệnh lao phổi vào ngày 23 tháng Hai năm 1921. Ông được mai táng tại nghĩa trang Tin lành ở Rome (Protestant Cemetery, Rome); trên mộ không đề tên mà chỉ đề dòng chữ: “Nằm đây, Tên của một người đuợc viết trong nước” (Here lies One / Whose Name was writ in Water).


Cuộc đời của Keats thật ngắn ngủi nhưng Keats đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị.

Những tác phẩm nổi tiếng của John Keats gồm Endymion , Hyperion , St. agnes Eve , Ode to a Grecian urn , Ode to a nightingale, On Melancholy , То autumn , Isabella.

Như đã viết ở trên, bài thơ La Belle Dame sans Merci của Jonh Keats đã gợi hứng cho nhiều bức họa thực hiện vào thời tiền Raphael ở Italy, trong bài viết này có tranh của 5 họa sĩ:
John William Waterhouse (1849-1917)
Arthur Hughes (1832-1915)
Walter Crane (1845-1915)
Thomas Francis Dicksee (1819- 1895)
Frank Cadogan Cowper (1877-1958)

Bức họa của JJ Waterhouse có lẽ miêu tả giai đoạn khởi đầu khi chàng hiệp sĩ vừa gặp người đẹp. (I)
Tranh của A. Hughes, W.Crane, và T.F. Dicksee cho thấy chàng hiệp sĩ dẫn nàng thong dong trên đường tới nơi người đẹp trú ẩn. (II, III, IV)
Và cuối cùng tranh của F.C. Cowper (V) miêu tả chàng hiệp sĩ đang ngủ mê man sau khi có một ngày tràn đầy hạnh phúc (ghi chú: hình này cho thấy một hiệp sĩ mặc nguyên bộ áo giáp năm ngủ khiến ta tự hỏi dưới mắt họa sĩ phải chăng đây một hoang đường trong giấc ngủ chăng?). (5)
Tưởng cũng nên nhắc lại một cách rất tóm tắt là từ thế kỷ thứ 12, hiệp sĩ là chức tước đuợc vua chúa trị vì quốc gia của họ phong cho người hoặc quyền quý hoặc có công lao với sứ sở của họ.

Sóng Việt
24 May 2010

Tài liệu tham khảo

1-La Belle Dame sans Merci (2010, May 19). Trong Wikipedia: the free encyclopedia. Truy cập May 21, 2010, từ http://en.wikipedia.org/wiki/La_Belle_Dame_sans_Merci
La Belle Dame sans Mercy: Introduction (2004). Truy cập May 21, 2010 từ
http://www.lib.rochester.edu/camelot/teams/sym4int.htm

2- Knight (2010, May 12). Trong Wikipedia, the free encyclopedia. Truy cập May 21, 2010, từ http://en.wikipedia.org/wiki/Knight

3- La Belle Dame sans Merci. Old poetry (2008). Truy cập May 21, 2010 từ
http://oldpoetry.com/opoem/783-John-Keats-La-Belle-Dame-Sans-Merci
http://englishhistory.net/keats/poetry/labelledamesansmerci.html

4- Tài liệu về John Keats truy cập May 21, 2010 từ
http://englishhistory.net/keats/life.html
http://www.answers.com/topic/john-keats
http://www.biography.com/articles/John-Keats-9361568?part=0

5- Những bức họa truy cập May 20, 2010

Hình I của J. W. Waterhouse từ
http://www.jwwaterhouse.com/view.cfm?recordid=20
Hình II của A. Hughes từ
http://www.1st-art-gallery.com/Arthur-Hughes/La-Belle-Dame-Sans-Merci-1861-63.html
Hình III của W. Crane từ
http://en.wikipedia.org/wiki/La_Belle_Dame_sans_Merci
Hình IV của T.F. Dicksee từ
http://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Frank_Bernard_Dicksee
Hình V của F.C. Cowper từ
http://www.artmagick.com/pictures/artist.aspx?artist=frank-cadogan-cowper

Thursday, June 10, 2010

Vài điển tích Trung Hoa trong bài nhạc Ngọc Lan

Vài điển tích Trung Quốc trong bài nhạc Ngọc Lan
của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước


Sóng Việt sưu tầm và biên soạn

Lời mở đầu.
Sau khi bài viết Mối Tình Học Trò của tác giả Nam Minh Bách nói về nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và nguyên do sự ra đời của bản nhạc Ngọc Lan của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước thì có một số thư trên các diễn đàn bàn về ý nghĩa lời bản nhạc. Mục đích của bài viết ngắn này không bàn về lý do hay nội dung tuyệt diệu của bài nhạc mà chỉ bàn về ý nghĩa và xuất xứ của một vài điển tích mà Nhạc sĩ Duơng Thiệu Tước đã nhắc đến trong bài.
Những câu thơ Kiều trích dẫn trong cuốn Nguyễn Du, Tác Phẩm và Lịch sử văn bản của Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính. Những dị bản của tác giả khác được đính kèm nếu có.

Ngọc Lan
Ngọc Lan, dòng suối tơ vương,
mắt thu hồ dịu ánh vàng
Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng,
tà mây cánh phong, nắng thơm ngoài song
Nét thắm tô bóng chiều, giấc xuân yêu kiều, nền gấm cô liêu
Gió rung mờ suối biếc, ý thơ phiêu diêu
Ngón tơ mềm chờ phím ngân trùng, mạch tương lai láng (1)
Dáng tiên nga, giấc mơ nghê thường lỡ làng
Ngọc Lan, trầm ngát thu hương,
bờ xanh bóng dương, phút giây chìm sương
Bông hoa đời ngàn xưa tới nay
Rung nhạc đó đây cho đời ngất ngây
Cho tơ trùng đàn hờ phím loan (2)
Thê lương mây nước, sắt se cung đàn
Ôi tâm hồn nghệ sĩ chìm trong sương thắm
Nhớ phút khuê ly, hồn mê tuyết hoa Ngọc Lan (3)
Mờ mờ trong mây khói, men nồng u ấp,
duyên hững hờ dần dần vương theo gió
Tơ lòng dâng bao cùng thương nhớ...

Xin đuợc bàn về điển tích ba chữ mạch tương, phím loan và phút khuê ly

1-Mạch tương
Mạch tương, nước mắt.
Đây là một điển cổ, xuất phát từ truyện hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh khóc vua Thuấn. Tục truyền rằng vua Thuấn tuần thú phương Nam, bị mất ở đất Thương Ngô, là một quận của tỉnh Quảng Tây về sau. Hai bà vợ là hai chị em ruột cùng khóc chồng đến chảy máu mắt trên bến Tiêu Tương. Người đời sau có lập đền thờ hai bà tại Đông Tương và kể rằng giọt lệ hai bà rỏ trên bờ trúc ven sông làm trúc nổi vân thật đẹp. Từ đó về sau, trúc mọc trên bờ Tiêu Tương nổi tiếng có vân quý và nước mắt đàn bà mới gọi là mạch tương.

Truyện Kiều có câu:
"Vâng lời khuyên giải thấp cao
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch tương".

(Câu 237, 238. Kiều sau giấc mơ thấy Đạm Tiên)

Là danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong hội họa và thi ca Trung Hoa, Tiêu Tương thực ra là khúc hai con sông Tiêu và Tương hợp nhất, thuộc tỉnh Hồ Nam. Sông Tương phát nguồn từ Dương hải sơn ở tỉnh Quảng Tây, chảy ngược lên Hồ Nam qua huyện Trường Sa và rót vào Động Đình Hồ. Vì trúc Tiêu Tương có vân đẹp nên thợ khéo tỉnh Hồ Nam hay đến sông này mua về làm mành. Và cũng vì xuất xứ bi thảm của sông Tương, chữ mành tương là chỉ tấm màn cách trở tình yêu, và sông Tương chỉ sự chia ly, nhung nhớ.

"Mành Tương phất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình."

(Câu 255, 256. Kim Trọng tương tư Kiều)

Sông Tương còn là điển tích từ mối tình buồn giữa Lương Ý Nương và người anh con cô con cậu là Lý Sinh, thời nhà Chu, đời Ngũ Quý. Mối tình vụng trộm của họ bị phát giác và ngăn cản, Ý Nương bị nhà đẩy xuống phía Nam sông Tương, Lý Sinh ở mạn Bắc. Lương Ý Nương hớp từng hụm nước sông mà nhớ đến người tình trên đầu nguồn, và làm bài thơ nói về sông Tương dù sâu cũng còn có đáy chứ nỗi nhớ nhung của nàng thì bất tận.

Một nguồn khác giải thích bài thơ Trường Tương Tư như dưới đây.
Trong "Tình sử" có chép như sau: vào triều nhà Chu đời Ngũ Quý (Ngũ Đại), có người con gái của Lương Tiêu Hồ 梁瀟湖 tên Ý Nương 意娘, cùng với Lý Sinh 李生 là họ hàng con cô con cậu. Lý Sinh thường qua lại rất nhiều. Nhân ngày trung thu ngắm trăng, ngầm hẹn ước với Ý Nương, lưu luyến không rời. Sự việc lâu ngày lộ ra, Tiêu Hồ nổi giận, ngăn cấm hai người gặp nhau. Gặp ngày trời thu, Ý Nương viết bài thơ Trường Tương Tư gồm 7 đoạn, mỗi đoạn có 4 câu.
Trích dẫn hai đoạn 4 và 5 như sau:

長相思

人道湘江深
未抵相思畔
江深終有底
相思無邊岸

我在湘江頭
君在湘江尾
相思不相見
同飲湘江水

Trường Tương Tư
Nhân đạo Tương Giang thâm,
Vị để tương tư bạn
Giang thâm chung hữu để
Tương tư vô biên ngạn

Ngã tại Tương Giang đầu
Quân tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủỵ

Nhớ nhau hoài
Người bảo sông Tương sâu
Tương tư sâu gấp bội
Sông sâu còn có đáy
Tương tư chẳng bến bờ

Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau không gặp mặt
Cùng uống nước sông Tương

Trích bản dịch Vũ Ngọc Khánh

Bản Trường Tương Tư cũng có nhiều dị bản, nhưng chỉ nêu ra ở đây hai câu.
Bản chữ Hán và Hán Việt cho thấy nàng (chữ ngã) ở đầu sông Tương, và chàng (chữ quân) ở cuối sông Tương, nhưng hầu hết bản Việt ngữ đều dịch là chàng ở đầu sông Tương, nàng ở cuối sông Tương, lý do không bàn luận ở đây mà trong một bài viết khác.
Người viết nghĩ rằng căn cứ vào câu cả hai đều uống nước sông Tương là khá toàn ý.

Cũng như trong câu 365-366 của truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết đầu nọ, cuối kia để chỉ xa cách mà không nói rõ ràng ai ở đầu nào, ai ở cuối kia:

"Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia."

(Câu 365, 366. Tâm trạng Kim, Kiều)

2- Phím loan.

Ngoài câu 253, 254 trong Kiều
"Buồn văn hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan,"

(254: Trúc xe ngòi thỏ, tơ trùng phím loan/Kiều Oánh Mậu)

trong Kiều còn (câu 725-726) có câu:
"Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"

(726: Giao loan chắp mối tơ thừa mặc em/Bùi Kỷ)

Ý nghĩa của chữ Phím loan
Trên internet có nhiều văn bản giải thích như sau:

Chữ loan trong phím loan xuất xứ từ chim loan mà ra.

Loan trong phím loan bắt nguồi từ chữ loan giao = Keo chế từ máu chim loan, tương truyền nối được dây cung đứt.
Theo Bác Vật Chí : Thời Hán Vũ đế, nước Tây Hải có người đem dâng 5 lạng cao. Vua cho đem cất vào kho, còn thừa nửa lạng sứ thần nước Tây Hải mang theo người. Sứ thần theo Vũ đế đi săn bắn ở cung Cam Tuyền. Dây cung vua đứt, các quan định thay, sứ thần Tây Hải xin lấy keo loan nối lại. Nối xong, vua sai lực sĩ kéo mỗi người một đầu dây nhưng vẫn không việc gì. Sứ thần Tây Hải nói cung có thể bắn suốt ngày mà dây không đứt. Vua lấy làm lạ lắm, nhân đó đặt tên là "Tục huyền giao" (Keo nối dây cung).

"Keo loan" hay chữ "loan giao" là một thứ keo chế bằng máu chim loan (phượng máu).
Sách "Hán Võ ngoại truyện" có chép: đời nhà Hán, triều Hán Vũ/Võ Ðế (140- 87 trước C.N.), dây cung đem ra căng bắn thường bị đứt. Bấy giờ miền Tây Hải có đem sang cống một thứ keo chế bằng máu chim loan gọi là loan giao, có tác dụng nối chắc dây lại. Nhờ đó mà bắn được suốt ngày. Võ Ðế mừng lắm, đặt tên thứ keo đó là "Tục huyền giao" tức là keo nối dây cung.

"Hán thư" cũng có chép chuyện.
Vua Võ Ðế truyền phu nhân Câu Pha đánh đàn. Nàng vặn trục so dây, tiếng đàn trỗi lên lảnh lót... Nhưng giữa chừng dây bỗng đứt. Nàng khóc, nói:
- Giữa lúc đàn đương ngon tiếng mà dây đứt ắt điềm gở
Nhà vua an ủi:
- Dây đứt nhưng có thể nối lại được, có gì mà gở.
Ðoạn sai người lấy keo loan chắp lại.

Lời bàn: Nếu keo loan hay cao chim loan là cao do nấu với xương cốt của chim loan mà thành (chứ không phải máu loan) thì có lẽ có ý nghĩa hơn là máu chim loan, vì nếu ai có dịp sờ chất cao thì thấy luôn luôn có chất dính làm dính tay. Nhưng nếu coi chim loan là một loài chim trong chuyện thần kỳ thì sự giải thích có tính cách khoa học không cần thiết (Sóng Việt).

Cao là gì? Cao là chất liệu cô đặc của xương cốt thí du như cao ban long, cao hổ cốt.
Cách nấu cao: Nấu cao tức là nấu vật liệu sau khi tẩy khử những tạp chất (như thịt, mỡ, tuỷ bám vào xương) bằng lửa cao vừa phải trong nhiều thời gian để tinh túy tan ra, mức nước sôi cạn thì phải canh chừng châm vào. Nấu cao bằng vạc hay chảo đụng lớn. Nước cốt được múc ra thành nhiều đợt, từ đậm rồi lạt từ từ để cuối cùng cô những mẫu nước cốt lại thành cao đặc . Đợt Nước cốt này được múc ra thì lại được châm nước sôi mới vào làm đợt khác. Giai đoạn cô cao phải canh chừng lửa vừa phải kẻo bị cháy nồi hỏng toàn mẻ cao. Ngày xưa, không có đồng hồ thì phải đốt nhang mà tính thời gian. Đại khái thì nấu cao hổ cốt, ban long, qui bản là như vậy. Ngày xưa, không có giấy bóng, người ta dùng lá chuối khô để gói sau khi cắt miếng rồi cân lượng, ghi nhãn bằng một vuông giấy hồng điều. (theo tài liệu trên internet)
Về thành phần hoá chất, những khảo sát thực nghiệm về cao hổ cốt cho biết cao hổ cốt chứa các chất sau: collagen, mỡ, calcium phosphate, calcium carbonate, magnesium phosphate, kalium carbonate - nhưng collagen là hoạt chất chính. Gelatin của Hổ cốt chứa 17 amino-acid. (theo tài liệu trên internet)
Vậy chất keo loan hay cao loan có lẽ chế bằng xương cốt mà không phải là máu chim loan (?) và đặc tính dính của keo loan do collagen mà thành (chính người viết ngày còn nhỏ rất nhỏ đã nhìn những miếng cao mầu nâu đậm xắt hình chữ nhật của bà nội).

Trong Chinh Phụ Ngâm bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm có câu
"Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng."
(câu 207)
Sợ làm đứt dây uyên ương (dây uyên kinh đứt) vì có thể báo hiệu điều không may của tình cảm đôi lứa; sợ cây đàn chùng dây (phím loan ngại chùng) gợi lên điều không may mắn của lứa đôi đang xa nhau.

Sự tích keo loan hay giao loan là như thế.

3- Khuê ly
Hai chữ khuê ly đuợc nhắc đến trong Tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn
Chinh phụ ngâm (征婦吟, khúc ngâm của người chinh phụ), còn có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc (征婦吟曲) là tác phẩm thơ của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741 giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và đuợc bà Đoàn Thị Điểm dịch ra cùng thời và về sau có thêm người dịch ra thơ Nôm.

不 勝 憔 悴 形 骸 軟
始 覺 睽 離 滋 味 酸 (câu 291)
Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn
Thủy giác khuê ly tư vị toan
(Chinh Phụ Ngâm/Đặng Trần Côn )

Khuê ly trong câu 252/412 trong bản chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm
"Khuê ly mới biết tân toan dường này."
Trong câu này chính bà Đoàn Thị Điểm cũng vẫn dùng chữ Hán nôm: Có chia lìa ngang trái thì mới biết đau xót cay dắng đến mực nào.


睽 Khuê: ngang trái
離 Ly: lìa tan chia rẽ
辛 Tân: cay đắng nhọc nhằn
酸 Toan: đau xót, mủi lòng

Nhớ phút khuê ly,...: nhớ phút chia lìa ngang trái...

Kết luận.

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước tài cao, kiến thức rộng, sự phong phú tư tưởng cùng dùng nhiều điển tích trong bài nhạc Ngọc Lan làm người viết những hàng chữ này đã nghĩ phải chăng ông thấu triệt điển tích và mang vào bài nhạc do am tường văn chương chữ Hán mà không nhất thiết dựa theo điển tích đã dùng trong những tác phẩm trước đó ? Và độc giả do quen thuộc với những tác phẩm văn học như truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm nên đã có ngay một sự liên tưởng không tránh được?

Sóng Việt Đàm Giang
05 June 2010