Sunday, June 29, 2014

Ngỡ Rồi Mình Già. Song Nghiên






Ngỡ Rồi Mình Già...

Ngỡ rồi già mình sinh ra gắt gỏng
Sợ thời gian năm tháng tiếp tục lăn
Sợ gió mưa làm trí tâm hư hỏng
Ngại tóc mỏng thưa da mặt đầy nhăn

Rồi vỡ lẽ già thật không có tuổi
Chẳng kêu than cứ vui vẻ ca vang
Từng bước nhỏ nhưng càng thêm chín muội
Càng đẹp hơn trong giới hạn thời gian

Ngỡ rồi già là một trời mây xám
Chẳng thấy hoa xinh mang lại môi cười
Cùng lặng ngắt cây cành phai tươi thắm
Sách biếng ghi thư viết chẳng nên lời

Rồi vỡ lẽ tuổi đời bồi hiểu biết
Thong dong chơi không e sợ ngày mai
Xá gì đến tuổi đời trôi qua miết
Kệ mặc thời gian, cây viết lại trên tay

Ngỡ rồi già làm tâm hồn chai cứng
Nhìn sao trời mà chẳng cảm được tình
Còn đâu nữa trái tim nồng đầy hứng
Khi màn đêm buông xuống phủ quanh mình

Rồi vỡ lẽ tuổi già tuyệt vời quá
Nhìn hoa hồng nở thắm giữa thu vàng
Tận hưởng lộc hương cuộc đời phân phát
Năm tháng thu sao cho thật huy hoàng.
  June 29, 2014

Song Nghiên phóng tác theo


"JE CROYAIS QUE VIEILLIR..." 
Marcelle Paponneau


Je croyais que vieillir me rendait bien maussade,
Craignant chaque saison, les années, le tapage,
Le grand vent et la pluie, l'esprit qui se dégrade,
Les cheveux clairsemés, les rides du visage.

Et puis je m'apercois que vieillir n'a pas d'âge,
Qu' il ne faut point gémir, au contraire chanter.
Et même, à petits pas, les jours ont l'avantage
D'être beaux et trop courts quand ils sont limités.
Je croyais que vieillir c'était le ciel tous gris,
Le printemps sans les fleurs, les lèvres sans sourire,
Les fleurs sans chansons, les abres rabougris,
Un livre sans histoire, un crayon sans écrire.

Et puis je m'aperçois que vieilir rendre bien  sage,
Que je vis chaque instant sans penser à demain,
Que je ne compte plus les années de mon âge,
Peu importe le temps, le crayon à la main.

Je croyais que vieillir transformerait mon âme,
Que je ne saurais plus comptempler les étoiles 
Que  mon coeur endurci n'aurait plus cette flamme,
Qui transforme ma vie lorsque le ciel se voile.

Et puis je m'aperçois  que les plus belles roses
Fleurissent à l'automne et sous mes yeux ravis,
Je respire très fort ce doux parfum que j'ose
Garder pour embaumer l'automne de ma vie.



Saturday, June 7, 2014

Ốc Sên và Thương Đao Tình . Sóng Việt Đàm Giang




Ốc Sên và Thương Đao Tình
(Snails and the Love Darts)
Sóng Việt Đàm Giang biên soạn

Trong một chuyến du lịch thăm viếng Anh quốc và Ái Nhĩ Lan (Ireland) chúng tôi được nghỉ qua đêm tại vài lâu đài khách sạn cổ kính rất đẹp và thơ mộng cùng thăm viếng nhiều lâu đài cổ chỉ còn là di tích lịch sử. Một trong những địa điểm đó là di tích lâu đài nhỏ bé McCarthy Mor nằm ở mặt sau của Khách sạn The Lake ở Killarney, Ireland nhìn ra hồ và phía sau là sương mờ, là núi cao chập chùng tuyệt mỹ, cảnh đẹp như tranh.

                                                         The Lake Hotel, Killarney. Ireland
 Tàn tích lâu đài McCarthy Mor


Lâu đài McCarthy Mor còn được gọi là Castlelough trên hồ Lough Leane (Killarney) do giòng họ nhà McCarthy chiếm hữu từ giòng họ nhà Roches vào năm 1262. Qua nhiều thế hệ, đến năm 1652 thì lâu đài bị quân lính của Cromwell đập phá trong trận chiến giữa Anh quốc với Ái Nhĩ Lan, rồi bị bỏ hoang một thời gian. Lâu đài khởi thủy nằm trên một đảo nhỏ có cây cầu bắc vào đất liền. Cho đến đầu thế kỷ thứ 19 thì giòng họ Lalor mua lại đất vùng này và sau đó đổ đất nối liền lâu đài này với dinh thự mới xây cất của họ. Lâu đài dần dần qua tay nhiều chủ nhân khác nhau và được biến thành khách sạn từ những năm 1850s. Đến năm 1940, gia đình Huggard tại Waterville mua lại khách sạn này. Gia đình Huggard làm chủ nhiều khách sạn trên đất Ireland  từ năm 1920 và khách sạn The Lake là một địa điểm rất có tiếng. Hoàng hậu Victoria đã tạm nghỉ ở khách sạn này vào năm 1861. Lâu đài đổ nát nhỏ bé McCarthy Mor mặc dù nằm trên đất của The Lake Hotel nhưng lại thuộc chủ quyền của quốc gia Ireland. Mọi người đều có thể đến thăm nếu đậu xe và đi theo bảng hướng dẫn để thăm viếng nơi này. Lâu đài hoang tàn tự nó không có gì đáng chú ý, nhưng cảnh chung quanh thì không thể không xuýt xoa chiêm ngưỡng.
Buổi chiều đến nơi chúng tôi nhận phòng rồi đi vòng vòng ngắm cảnh chụp hình, rồi hẹn nhau sáng ra sẽ đi thăm mọi nơi kỹ hơn.
Buổi sáng sớm hôm sau trời rất đẹp, đi bộ ra hồ và tìm góc cạnh đẹp để chụp hình, tình cờ người viết bắt gặp trên lối đi đôi ba chú ốc sên nhỏ xíu đang chậm chạp bò để lại  sau đuôi những vết nhớt láng bóng. Không thấy chúng thì thôi, mà khi thấy rồi thì thấy nhiều khá nhiều sên đang bò khắp nơi, trên lối đi, trên tảng đá, trên vách đá, trên những cành hoa, v.v…

                     Từ khách sạn The Lake nhìn ra.  Ốc sên.        Bờ cát ven hồ


 Những con ốc sên nhỏ bé thế mà thật đáng chú ý. Nó cứ ám ảnh và lãng đãng trong óc người viết mãi. Thôi thì viết một chút về nó vậy.

Ốc sên vườn
 Bài viết ngắn này thu hẹp nói đến ốc sên vườn, tiến trình sinh sản và chu kỳ của loài ốc sên vườn mà không chú trọng đến phân loại.
Ốc sên vườn thuộc lớp chân bụng, ngành thân mềm/nhuyễn thể, có phổi và là loài lưỡng phái trong cơ thể có cả bộ phận sinh dục đực và cái (ống dẫn tinh và noãn sào sản xuất trứng).
 Lớp chân bụng này được ước lượng có khoảng 60,000 đến 80,000 loại khác nhau. Ốc sên vườn là loại đuợc biết nhiều nhất trong lớp chân bụng. Ốc sên vườn nói đến trong bài viết này là loài ốc xoắn vòng ngắn “lùn” như helix aspersa, helix lucorum, helix pomatia, helicella itala, thuộc gia đình Helicidae mà không phải là loài ốc xoắn dài “cao” achatina.
Ốc sên vườn hay ốc sên đất rất nhỏ kích thước cỡ từ đồng tiền 10cents, 5cents rồi lớn nhất nhỉnh hơn 25 cents của USA. Những hình đính kèm người viết chỉ nhận diện dựa theo những mô tả đã có về ốc sên.
Hình phác họa nội tạng ốc sên vườn như dưới đây trên Wikipedia cho thấy:

1: vỏ; 2: gan; 3: phổi; 4: hậu môn; 5: hô hấp; 6 & 7:tua nhìn; 8: não hạch; 10: miệng; 11: thực quản; 13: lỗ đường sinh dục gần đầu; 14: vùng sinh dục đực; 15: vùng sinh dục cái với ống noãn; 20: dạ dày; 23: tim;
Vỏ ốc sên có màu từ vàng nhạt đến nâu sậm, và nhìn màu cùng những vân, vạch trên vỏ mà người ta phân loại ra làm nhiều loại khác nhau, thí dụ vàng nhạt vằn ngang xoay dọc theo vằn vỏ ốc là helix lucorum, mầu nâu nhạt có sọc thẳng đứng mầu đậm hơn là helix aspersa, và sọc liền liền mầu nâu đậm là helix pomatia. Riêng loại helicella itala vỏ màu trắng có vằn đen.

                              Helix aspersa                 Helix lucorum               Helix pomatia (hình internet)

                              Helix pomatia             Helicella itala             Achatina fulica/ốc sên hoa.


Ốc sên có hai cặp râu/tua nhìn như những cái sừng nhỏ, một cặp mắt (thị giác) nằm ở trên đỉnh tua dài. Cặp râu ngắn để ngửi và tiếp xúc (khứu giác và xúc giác). Miệng ốc sên có thể giãn rộng theo hình ống, trong phần miệng có nhiều răng nhọn dùng để cạp và cạo lá cây hay thức ăn.  
Khi hai ốc sên gặp nhau, dọ dẫm, và ưng ý thì chúng bò bò chung quanh nhau để tìm một vị trí thích hợp nhất để rồi bắn đao thương tình và rồi sẽ dính chặt với nhau một cách lạ kỳ. Nhìn hình hai con sên quấn quýt nhau và không rời nhau sau cả sáu bẩy tiếng đồng hồ, người ta đã tự hỏi về đời sống sinh lý của loài ốc sên này. Nhờ những khoa học gia trong ngành nghiên cứu và nhất là ông Ronald Chase một nhà khoa học thuộc đại học McGill tại Montreal mà chúng ta đã biết thêm được nhiều bí ẩn của loài ốc sên. Những con ốc sên này có lưỡng phái nhưng một ốc sên không thể tự thụ tinh để đẻ trứng được mà phải trải qua một cuộc giao phối di thể với một con sên khác để hoàn tất quá trình thụ tinh.
Và sự trao đổi này đã có liên hệ đến mũi thương đao tình giữa hai sinh vật. Mũi đao này được mệnh danh là mũi đao tình đau thương  ví von tựa như mũi tên tình yêu do thần Cupid phóng ra. Khi đao tình đã phóng dù trúng hay không trúng đối tượng, hai sên vẫn liên hệ với nhau qua đường sinh dục và trao đổi tinh trùng trong một thời gian có thể dài đến hơn sáu giờ. Khoa học gia giải thích chất nhớt thải ra từ đao tình giúp cho ống dẫn trứng của sên phóng đao ra co bóp mạnh hơn kết quả làm tăng đáng kể số tinh trùng xâm nhập và gây thụ thai nhiều trứng hơn.
Sau khi dò dẫm, tìm hiểu, hai sên sẽ bắn đao tình và tiến triển việc trao đổi tinh trùng. Hình đính kèm cho thấy đao thương vẫn còn nguyên, chưa gẫy nên có thể đao thương chỉ giúp cho con sên bắn ra có chất kích thích tố cần thiết để giúp giữ lại nhiều tinh trùng mới thu nhận hơn. Nơi đao thương đã gẫy sẽ dần dần được mọc lại và tiến trình sinh lý lại tiếp diễn. Đao thương ốc sên vườn có dạng một cái dáo bốn cạnh, rỗng có mũi nhọn và làm bằng calcium carbonate. PubMed/Medline. Tissue Cell:1979;11(1):51-61.The structure and compositon of the love dart (gypsobelum) in Helix pomatia. Cũng có loài ốc sên có đao thương làm bằng chất chitin hay một chất khác.


Lúc bình thường khi cầm sên lên hay đụng vào thân mềm của sên thì sên sẽ tự co rút thân vào trong vỏ ốc. Nhưng khi hai con ốc sên đang dính vào nhau thì dù có bị nhắc lên hay đụng vào chúng vẫn không rời nhau. Khác với hầu hết những sinh vật khác, vị trí của cửa bộ phận sinh dục nằm bên phải gần tua ở đầu sên nên khi xáp dính nhau chúng hoặc phải ngoẹo đầu hay giữ vị trí dính bên phải với nhau. Sau một thời gian dài từ vài tiếng đến hơn sáu tiếng xáp dính chặt, ốc sên rời nhau ra rất mệt mỏi và sẽ rút vào vỏ nghỉ ngơi cả ngày.
Cỡ 4 tuần sau, cả hai sên đều đẻ trứng, trứng màu trắng nhỏ cỡ 4 mm, một lứa có chừng 60-80-100 trứng. Một năm sên có thể sản xuất từ 4 đến 6 lần. Trứng nở sau 3-4 tuần  có thể tự kiếm ăn ngay và trưởng thành cỡ sau một năm.
Sên được biết như hiện diện khắp nơi trên địa cầu, lúc khí hậu thuận tiện thì sên bò ra ăn trái cây, hoa lá; lúc khí hậu khô hay lạnh sên rút vào trong vỏ và gắn chặt vỏ với một lớp màng nhày đóng khô gọi là epiphram, lớp này giúp sên giữ được ẩm ướt trong cơ thể. Thời kỳ yên tĩnh này là thời kỳ ngủ mùa hè (aestivation) và ngủ mùa động (hibernation). Trong giấc ngủ mùa đông, ốc sên ngừa được hàn đông đá do thay đổi độ thẩm áp trong máu đến mức có thể chịu được hàn độ thấp đến -5 độ C. Trong thời kỳ ngủ mùa hè, lớp nhuyến mạc ở mai ốc có khả năng thay đổi độ ẩm ướt và qua cơ chế điều hòa thẩm thấu giúp cho ốc có thể sống trong nhiều tháng.
Ốc sên cũng có khả năng nhịn đói rất lâu. Tài liệu cho biết chúng có thể còn sống đến 4 năm liền không ăn. Đời sống của ốc sên nói chung có thể kéo dài cỡ từ 3 đến 10 năm.

Sự hiện diện của ốc sên trong Đông y, Thực phẩm, Mỹ phẩm và Văn hóa Nghệ thuật.

Về mặt y học, theo tài liệu, ốc sên đã được xử dụng làm thuốc trong Đông y với tính vị mặn, hàn, bổ dưỡng, thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, tiêu thũng và chống co thắt. Theo sách Nam dược thần hiệu, để chữa mụn lở ở da mặt, có thể dùng ốc sên giã nát, chế thêm chút nước, phết lên giấy, chừa một lỗ nhỏ ở giữa, đắp lên chỗ bị tổn thương. Theo Trung dược đại từ điển, ốc sên có công dụng thanh nhiệt, tiêu thũng, giải độc, chữa các chứng bệnh như phong nhiệt, co giật do sốt cao, tiêu khát do tiểu đường, viêm họng, quai bị, ung thũng nhọt độc, trĩ viêm loét, sa trực tràng, vết thương do côn trùng cắn đốt...

Về mặt thực phẩm, ở Pháp, từ lâu đời, người ta đã nuôi ốc sên thành trại quy mô để chế biến thịt ốc sên thành một món ăn khoái vị. Ốc sên cho món Escargot này là loài ốc sên “lùn” helix pomatia, khác với loài ốc sên hoa “cao” (achatina fulica) là loài ốc thịt lớn và vỏ ốc dài, nhiều vòng xoắn hơn. Ngoài món ốc sên escargot, hiện nay còn có cả trứng ốc sên (caviar d’escargot). Món trứng ốc sên này do nhà nuôi sên người Pháp Dominique Pierru tung ra thị trường vào năm 2004 với sản phẩm mang nhãn hiệu cầu chứng tên De Jaeger.
 

                     Món ốc sên (Paris)    Trứng ốc sên (D.Pierru)  Thẩm mỹ liệu pháp ốc sên

Về mặt mỹ phẩm, nhớt của ốc sên được cho là có khả năng chống lão hóa đối với da người, và một số mỹ phẩm cho da được bán trên thị trường hiện nay có chứa chiết xuất từ chất nhầy của ốc sên. Gần đây tại các trung tâm làm đẹp của nhiều nước trên thế giới như Nga, Tây Ban Nha, Nhật bản, v.v.. người ta dùng ốc sên sống đặt trên da mặt người để chất nhầy mang hiệu nghiệm trực tiếp đến cho làn da. Họ gọi đó là liệu pháp ốc sên. Mong rằng những chú ốc sên này đã được nuôi dưỡng trong môi trường sạch để có chất nhầy tốt không mang bệnh tật đến cho người muốn làm đẹp.

Trong văn chương nghệ thuật đã có bài thơ “Bài hát ốc sên đi đưa đám tang(Chanson des Escargots qui vont à l’enterrement) của Jacques Prevert, và có bức vẽ “Con Cò và con Ốc sên” (Le héron et l’escargot) của Edouard Rischgitz miêu tả chuyện thơ ngụ ngôn Con Cò của Lafontaine nằm tại Bảo Tàng Anh quốc. Cả hai bài thơ đều có ý nghĩa rất hay.

Tóm lại, ốc sên, một sinh vật tầm thường ở vườn sau mà đã có cả một lịch sử tiến hóa từ thời tối cổ cho đến hiện tại và vẫn còn đang được khai thác. Nếu chú ý đến thiên nhiên thì trái đất có thiên hình vạn trạng sinh vật để ngạc nhiên và tìm hiểu.

Sóng Việt Đàm Giang
Mùa Xuân năm 2014