Sunday, March 16, 2014

Ai Cập! Ai Cập! I SVĐG



Ai Cập! Ai Cập!

Sóng Việt Đàm Giang

Nói đến Ai Cập thì chúng ta thường  nghĩ  đến những Kim tư tháp cổ, hay tượng Nhân sư (The Sphinx). Thăm viếng nước Ai Cập là một chuyến du lịch đáng kể đối những người thích du lịch.
Những thành phố có nhiều di tích lịch sử của Ai cập nằm dọc theo bờ sông Nile từ bờ biển Địa trung hải (vùng hạ lưu sông Nile) đi xuống miền nam (thượng lưu sông Nile) được biết đến nhiều nhất phải kể là Alexandria, Giza, Cairo, Saqquara, Memphis, Dashur,  Meidum, Tell el-Amarna, Dendedra, Karnak,  Luxor, Esna, Edfu, Kom Ombo, Aswan, Philae, và Abu Simbel. 

Quốc gia Ai Cập
Ai cập là một trong những nước hiện diện sớm nhất ở bên bờ sông Nile ở vùng đông bắc Phi châu. Nến văn minh cổ của Ai Cập là một trong những nền văn minh cổ xưa và sớm nhất trong lịch sử loài người.
Từ ngàn đời người Ai cập đã được biết là có phong tục ướp xác người chết và chôn trong những ngôi mộ như Masbata và Kim tự tháp. Mastabas là nguồn gốc đầu tiên của Kim tự tháp với một khối hình tháp xây bằng đá. Trong Mastaba có ba phòng: sảnh đường, phòng tế lễ và phòng thờ (nơi đặt tượng người chết).  Mastaba  hiện còn thấy ở vùng lăng mộ vua chúa ở Memphis, Ai cập.
Một trong những Kim tự tháp lớn đầu tiên là Kim tự tháp Djoser ở Saqquara hình bậc thang, gồm 6 tầng thang,phía trên thu nhỏ dần,  đáy hình chữ nhật, cao chừng 60 m. Đây là công trình của Imhotep (BC 2770). Hai kim tự tháp có ba bậc nhỏ hơn tìm thấy ở Meidum và Dashur.  
                                   
Kim tự tháp ở Giza gồm 3 kim tự tháp nổi tiếng là Kheops, Khephren, và Mykerinos. Những kim tự tháp này là tháp đá vôi. Ở Giza, ngoài ba kim tự tháp trên phải nói đến tượng Sphinx.    
Đền thờ
Đền thờ cổ xưa được biết là dùng để thờ thần Mặt trời, nơi này cũng chính là để thờ vua. Một đền thờ tiêu biểu còn thấy rõ như Đền Karnak ở Karnak . Theo tài liệu cổ thì đền thờ gồm có một tiền tháp môn (propylon), một đường lát đá hai bên có những tượng đầu người mình thú, rồi bút tháp obelisk, tượng vua và cửa tháp.
     
                      Đời sống Ai cập cổ xưa
Đời sống Ai Cập cổ coi như gắn liền với sông Nile, một dải sông dài 6695 km (4184 miles), có bẩy nhánh đổ vào Địa Trung Hải. Tên sông Nile bắt nguồn từ chữ Hy lạp “Nelios”, có nghĩa là Sông Thung lũng.
Sông Nile bắt nguồn từ hồ Victoria, Uganda có tên là giòng Nile Trắng chảy qua Sudan, và Ai cập. Giòng Nile Xanh bắt nguồn từ hồ Tana, Ethiopa chảy qua Zaire, Kenya, Tanzanian, Rwanda, và Burundi cùng các nhánh chảy vào sông Nile hay hồ Victoria Nyanes. Những thành phố chính nằm kề bên sông Nile và Nile Trắng phải kể Cairo, Gondokoro, Khartoum, Aswan, Thebes/Luxor, Karnak, và thành phố Alexandria nằm gần nhánh Rosetta .
Trong bài viết đó đây có thể kể rằng sông Nile chảy từ nam lên bắc. Điều này không có gì khó hiểu vì nước sông chảy theo giòng từ trên  đồi núi cao ở trung Phi tới vùng delta sông Nile đổ vào biển Địa trung hải. Miền nam Ai Cập được gọi là Thượng Ai cập, miền bắc Ai Cập gọi là Hạ Ai cập. Trên bản đồ khúc sông Nile chảy qua Ai Cập nhìn tựa như hình chữ S.
Phần thượng lưu sông Nile nằm phía nam của tượng Sphinx là một vùng đất hẹp, có ít nguồn lợi thiên nhiên nên không phát triển được mấy.
Trái lại, phần hạ lưu sông Nile nơi nước chảy vào biển Địa trung Hải là một vùng đất đồng bằng phì nhiêu được bồi đắp phù sa với nước sông Nile hàng năm từ tháng 6 đến tháng 9 nên rất màu mỡ và thuận lợi cho canh nông, mùa màng, trồng trọt và  hải sản cùng chim cá cùng động vật. 
Tất cả các điều kiện thuận lợi thiên nhiên trên vùng hạ lưu sông Nile đã góp phần hình thành nền văn minh Ai Cập sớm nhất. Các ngành nghề như đánh bắt cá,  nghề nông, thủ công nghiệp, và thương nghiệp đều phát triển ngay từ  3000 năm Trước Công nguyên (BC 3000). Đặc biệt, các di sản kiến trúc  như Kim tự tháp, điêu khắc, Obelisk,  đã được cả thế giới ngưỡng phục cho đến ngày nay.
Không đi vào chi tiết, chỉ xin tóm tắt là Kim tự tháp đầu tiên vào thời kỳ 2800 năm Trưóc Công nguyên ( BC 2800) là do Hoàng đế Djoser ra lệnh cho Imotep xây và dựng ở Saqquara.
            Cỡ BC 2700 thì có kim tự tháp ở Meidum và Daschur. Sau đó là thời kỳ xây dựng kéo dài cỡ 20 năm cho ba Kim tự tháp ở Giza  của Kheops (Khufu), Khephren (Krafre), và Mykerinos (Menkaure). Phía trước Kim tự tháp Khephen là tượng nhân sư Sphinx có khuôn mặt tựa như Khephren.
Sau thời kỳ Kim tự tháp thì một obelisk đầu tiên xây dựng ở Abusir để thờ thần mặt trời Re.

Quan niệm về thế giới huyền bí của người Ai Cập cổ hay tôn giáo tín ngưỡng liên quan đến thần Ra (hay Re)
Truyền thuyết kể rằng thần linh của người Ai Cập cổ, khi sơ khởi được quan niệm là một thế giới hỗn hợp của vật chất là nước. Vị thần đầu tiên, thần Atum (Ra hay Re), hàng năm xuất hiện như nước lũ của sông Nile ở xứ sở Ai Cập. Thần Ra sinh ra các bọt nước, từ đó biến thành thần Shu (liên hệ đến tia sáng mặt trời và không khí khô ráo giữa đất và trời)nữ thần Tefnut (thần mưa, m ướt liên hệ đến mặt trời và mặt trăng). Thế giới được tạo ra khi thần Shu và Tefnut sinh ra nữ  thần Nut (Trời) và thần Geb (Đất). Theo như thế thì thần Tefnut với người anh song sinh Shu (và cũng là chồng) cùng với hai con tạo nên bốn nguyên tố chính: đất (Geb), trời (Nut), không khí (Shu), và nước (Tefnut). Người Ai cập có lòng tin rằng nếu không có nước của nữ thần Tefnut thì Ai cập sẽ bị khô cằn và bị mặt trời đốt cháy.
Nut và Geb có bốn con là Osiris, Seth, Nephthys, và Isis. Isis là em và cũng là vợ của Osiris, con trai lớn của thần Geb. Osiris được cử làm vua Ai Cập cổ. Người em trai của Osiris là  Seth được xem là người xấu. Vì ghen ghét, Seth đã âm mưu giết Osiris, phân thây ra làm nhiều mảnh vứt bỏ rải rác khắp nơi, và tự lên ngôi làm vua Ai Cập. Isis, vợ Osiris tìm đủ mọi cách để thu thập hầu hết những mảnh thân thể của chồng, nhờ thần Thoth dùng phép làm Osiris sống lại và sau đó Isis tự thụ thai với tinh trùng của Osiris và sinh ra Horus. Horus sau đó, tìm cách trả thù cho cha. Seth thách đấu với Horus, bị thua, bị đày đến sa mạc và biến thành thần bão cát khủng khiếp. Osiris được ướp xác bởi Anubis  và biến thành thần của thế giới bên kia. Horus lên ngôi vua và trở thành pharaoh.
Có rất nhiều truyền thuyết xung quanh vị thần Ai cập và các triều đại Ai Cập.
Người Ai cập thờ rất nhiều loại thần. Họ cho rằng khi những hoàng đế (pharaohs) của họ chết đi, qua thế giới bên kia thì sẽ biết thành thần. Thế giới của người Ai Cập luôn xoay quanh các điều thần bí về con sông Nile và sa mạc, tạo nên một đức tin về các thế lực thần bí, luôn lôi kéo con người phải thuần phục các pharaohscoi các pharaoh như một vị thần hiện hữu, thay mặt các vị thần khác có nhiệm vụ trông coi dân Ai Cập, cùng  dung hòa các thế lực thiên nhiên khắc nghiệt để mang lại cho nhân dân Ai Cập một cuộc sống yên lành bên cạnh dòng sông Nile.
 Như trên đã đề cập, Osiris bị người em độc ác Seth giết chết. Sau đó Osiris được Thoth làm phép cho sống lại (phục sinh). Công thức I.A.O. (Isis, Apophis, Osiris)  Sinh ra, Chết đi, Phục sinh rât quen thuộc với người Ai cập. Osiris giữ vai trò quan trọng trong Ai cập cổ huyền bí, và là vị thần được dân Ai cập hết lòng yêu quý và ngưỡng phục. Osiris dạy dân Ai cập cách làm ruộng, ăn rau, và ăn thịt thú vật đúng cách.  Osiris cũng là vị thần của thế giới bên kia. Hình cho thấy Osiris là người được gói thân như xác  ướp, có da mầu xanh, tay cầm một cái móc và một cái đòn đập lúa. Trên đầu Osiris mang một vương miện (atef) gồm một mũ hình nón trắng tượng trưng Thượng Ai Cập, có gắn lông đỏ hai bên.
    
                               
Một tấm hình vẽ cho thấy nữ thần Nut cong người lên, có hai tay và hai chân chạm đất tạo thành một bán cầu. Thần Nut tượng trưng cho thiên đàng, chân và tay tượng trưng cho bốn cột trụ để trời nghỉ ngơi. Nut được thần không khí  Shu (bố) đỡ. Chồng nàng nằm nghiêng trên mặt đất, chống một khửu tay và hai chân ở trên mặt đất. Vị trí nằm miêu tả đồi và thung lũng. Truyền thuyết nói rằng khi Shu nâng Nut (trời) trên Geb (đất), Shu đã chấm dứt được sự hỗn loạn mà nếu Shu thay đổi vị trí thì sự hỗn loạn lại xẩy ra.
           
                                                             Chữ cổ  Ai cập-Tefnut
Chữ viết Ai Cập cổ: chữ tượng hình (Egyptian hieroglyphs)
Đã lâu, các nhà khảo cổ học tìm thấy những ký hiệu tượng hình được khắc trên các bức tranh trong các di tích tìm thấy khi tiến hành khai quật Heliopolis vào năm  1894. Tuổi của những chữ tượng hình này có niên đại vào khoảng 3200 TCN. Các nhà khảo cổ Ai cập xếp hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ vào thể loại chữ tượng hình lối viết sớm của hệ thống chữ viết của thế giới.
Chữ tượng hình Ai Cập cổ không còn được sử dụng từ thế kỷ thứ 4. Đến thế kỷ 15, người ta bắt đầu tìm cách giải mã hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ. Đến thế kỷ 19, nhà khảo cổ người Pháp là Champollion đã giải mã được văn tự Ai Cập này.

Cuối thế kỷ 20, người ta đã truy ra là mẫu tự Phoenix (tổ tiên của người Li Ban) đã được đặt ra bắt chước theo văn tự Ai Cập. Sau đó các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và La-Tinh đã dựa theo mẫu tự Phoenix để thành lập chữ viết của mình. Ngày nay, các xứ dùng mẫu tự La Tinh, trong đó có Việt Nam, Pháp, Anh; các xứ dùng mẫu tự Hi Lạp, trong đó có Nga đều thừa hưởng di sản của chữ viết Ai Cập.
Điều ấn tượng nhất chính là kỹ thuật xây dựng của người Ai Cập cổ. Những công trình đồ sộ, cao lớn và chính xác theo quan niệm vũ trụ của người Ai Cập cổ đến hôm nay cũng làm cho các nhà khảo cổ học lúng túng và việc liên tục khám phá. Có nhiều công trình nghiên cứu mới ra đời thay thế cho các lập luận cũ không còn đứng vững. Cũng cần nhắc đến kiểu kiến trúc đặc biệt của các cổng, cửa theo kiểu của vòm ở triều đại thứ 4; tất cả các lối vào của các công trình lớn được kết cấu bởi các cổng lớn có dầm đỡ.
Ai cập bắt đầu thuộc Ai Cập từ khi Đại đế Alexandros III  làm vua xứ Macedonia vào năm 332 TCN. Khi Alexandros chết năm 323 TCN thì Ai cập rơi vào tay của Ptolemy. Triều đại Ptolemy bắt đầu từ đó và trị vì gần 300 năm và chấm dứt với nữ hoàng Cleopatra VII.

Nữ hoàng Cleopatra VII 
Nhà Ptolemy truyền đến người trị vì cuối cùng là nữ hoàng Cleopatra VII Philopator. Năm 51 TCN, bà cùng lên ngôi và cưới người em trai, Plolemy XIII Theos Philopator.
Năm 49 TCN, ở La Mã có cuộc nội chiến giữa hoàng đế Julius Cesar và tướng Gnaeus Pompeius Magnus. Năm 48 TCN, Cleopatra bị lật đổ. Cùng năm đó, Pompeius bị đánh bại, ông phải chạy trốn vào Ai Cập và bị giết tại thành Alexandria bởi một viên quan của vua Ptolemy XIII. Caesar đã chiến thắng, xong sai đó ông lại dính vào cuộc nội chiến dành quyền giữa Ptolemy XIII và Cleopatra. Quân đội của Ptolemy XIII bị tiêu diệt và Caesar trở thành tình nhân của Cleopatra, ông lập lại ngôi vị cho Cleopatra. Cleopatra lại lên ngôi cùng một người em khác là Plotemy XIV, còn Cleopatra thì theo Caesar về La Mã. Năm 44 TCN, Caesar bị giết và Cleopatra trở về Ai Cập.
Năm 41 TCN, Cleopatra gắn bó với Marcus Antonius, một vị danh tướng La Mã. Năm 31 TCN, La Mã có nội chiến, Cleopatra và Antonius cùng ra đánh trận Actium ngoài khơi. Tại đây, Cleopatra  Antonius  đã bị danh tướng Octavian (người cháu gọi Caesar là chú) đánh bại. Theo truyền thuyết, sau thất bại, Cleopatra về cung điện và tự sát bằng rắn độc. Octavian chiếm được Ai Cập và năm 27 TCN, ông lên ngôi Hoàng đế La Mã Augustus.
Thời kỳ Ai Cập thuộc Hy Lạp kết thúc. Đất nước Ai Cập đã biến thành một tỉnh La Mã và bước sang thời kỳ Ai Cập trực thuộc La Mã. Đây là một thời đại thanh bình mà sử gọi là  Thái Bình La Mã (Pax Romana).

      
Những Obelisks cổ ở Ai Cập.
Những obelisk cổ còn lại ở Ai Cập không nhiều, tổng cộng tám cái, gồm ba ở Karnak, một ở Luxor, một ở Viện bảo tàng Luxor, ba ở Cairo và một obelisk dang dở vẫn còn nằm ở Aswan.

 Đền đài Karnak, Thebes có ba obelisks:
Obelisk Tuthmosis I, cao  66-75ft  nặng cỡ 143-160 tons.
Obelisk Hatshepsut, cao 97ft  nặng 320-323tons
Obelisk  Seti II, cao cỡ 23ft

Đền đài Luxor: Luxor    Obelisk Ramses II cao  82ft nặng 254 tons
Viện Bảo tàng Luxor: có obelisk Ramses II

Thành phố Cairo:
Heliopolis, Cairo.  có Obelisk Senusret  cao cỡ  69 ft nặng 120 tons
Gezira Island, Cairo. Có obelisk Ramses II  cao cỡ 68 ft nặng 120 tons
Cairo International Airport. Có Obelisk Ramses II  cao cỡ 56 ft nặng 110 tons

                      Obelisk-Tượng Ramesses.Luxor                          
                                                                            
                                                           Hypostyle Hall
                                                   
Đền Luxor

Đền Luxor được Amenhotep III cho xây cất để thờ thần Amun-Re, vợ là Mut, và con trai là Khonsu. Đền này được coi là nơi trú ẩn của Amun Re. Đền này trực tiếp nối liền với đền Karnak, trung tâm chính  để thờ Amun-Re hay Amun-Min, là thần mắn con. Ngày xưa trước đền có một cặp obelisks dành riêng cho Ramesses II thờ thần Ramun-Re. Nhưng hiện nay chỉ còn có một obelisk làm bằng đá hoa cương hồng, cao 25 m (82ft) nặng cỡ 254 tons.  Obelisk thứ hai cao 23 m, (72 ft/230 tons) hiện ở tại Place de La Concorde, Paris, Pháp.  Pháp đã nhận obelisk này như món quà của Ai Cập vào năm 1836 để thắt  chặt ngoại giao giữa hai quốc gia. Lối dẫn vào đền cũng còn tồn tại hai tượng Ramesses ngồi. Trong thời gian đền Luxor còn nằm ẩn sâu dưới lòng đất cát thì vào thế kỷ thứ XIV một ngôi đền Hồi giáo được xây ngay phía trên ngôi đền Luxor. Hiện nay đền Hồi giáo vẫn còn thấy.


Đền đài Karnak 

  
Như đã nói ở trên dẫy đền đài Karnak nằm ngay gần phía bắc của Luxor. Nơi đây có đủ loại di tích như đaị lộ đầu người mình thú dẫn đến đền thờ, cột trụ khổng lồ. Đền Karnak được phân chia ra làm bốn khu vực. Chỉ có khu của Amun-Re là mở cửa cho du khách. Ai tới Karnak cũng phải sững sờ trước những hàng cột khổng lồ ở Hypostyle Hall trong khu Amun-Re, một khu vực rộng 5,000 thước vuông, với 130 cột, chia làm 16 dẫy; 122 cột cao 10 m, 12 cột cao 21 m, có đường kính lớn hơn 3 m.
Một obelisk được Hoàng hậu Hatshepsut (1473-1458 BC) cho dựng lên. Obelisk được cắt từ đá granite quarries ở Aswan. Obelisk của Hatshepsut cao 97 fr nặng 320 tons. Dưới đáy có hàng chữ cho biết việc cắt đá và hoàn thành tốn 7 tháng. Hatshepsut đã dựng 4 obelisks, nhưng chỉ còn có một là đứng. Một đã gẫy và chỉ còn một nửa nằm gần đó.
Obelisks: Tuthmosis, Hatshepsut   
                                                       Obelisk dang dở tại Aswan
                
         
Gần đó là một obelisk dựng bởi Tuthmosis I (1504-1492 BC) nhỏ hơn cao 75 ft, nặng cỡ 160 tons. Obelisk Tuthmosis I hơi nghiêng một chút. Trên  bốn mặt của obelisk có khắc  ba hàng chữ, hàng ở giữa thường cho biết lịch sử của những vị vua thời đó. Hàng chữ ở mặt phía đông có liên hệ đến Tuthmosis I.
Ngoài hai obelisk cao, còn một obelisk rất thấp của Seti II nằm trong Đền lớn của Amum, cao khoảng 23 ft.

Obelisk thường dựng có đôi, chiều cao hơi chênh lệch nhau một chút. Kích thước cùng độ góc của cặp obelisk đã được tính toán kỹ lưỡng khi dựng đặt ở một địa điểm với nhiều nghiên cứu về thiên văn và lịch ngày tháng.

Obelisk dang dở ở Aswan

Đây  là obelisk lớn (cao) nhất của thời cổ đại. Hiện nay obelisk này vẫn còn nằm tại chỗ, còn gắn liền với một tảng đá. Vì có một vết nứt tự nhiên ở trên tảng đá mà công trình này phải bỏ dở. Obelisk dang dở nằm ngang này cho thấy có chiều cao 36 m (120 ft), và như vậy nếu được hoàn tất thì đó là obelisk cao nhất và nặng nhất cỡ 1000 tons. Obelisk dang dở này đã được cho rằng là một cặp với Lateran obelisk ngày trước dựng ỡ Karnak, nay ở Rome, Italy, gần nhà thờ San Giovanni.

Obelisk ở Cairo.
 Thành phố thủ đô Cairo có 3 obelisks
                                                                     Heliopolis

                                                                  Cairo Airport 
                                 
                                                                       Geiriza

                              

               
Obelisk ở tại Heliopolis, Cairo, Egypt của pharaoh Sesostris I (trị vì  1972-1928 B.C.), cao 69 feet, nặng 120 tons. Đây là obelisk cổ nhất từ thời Trung Nguyên (2050-1786 B.C.), được dựng để kỷ niệm trị vì hơn 30 năm của vị pharaoh Sesotris I. Người ta cho rằng cái obelisk thứ hai đã đổ mất vào thế kỷ thứ 12 A.D.

Obelisk ở Vườn Al Andalus, Gezira Island. Đây là obelisk của Ramses II xuất xứ ở Tanis cách bắc Cairo cỡ 70 miles. Nó được chuyên chở đến Vườn Al Andalus, đảo Gezira trên sông Nile, gần Cairo vào năm 1958. Obelisk này cao cỡ 45 ft.

Và ở gần phi trường Cairo có một Obelisk cao cỡ 56 ft.

Ngoài obelisks cổ không mang nhiều ấn tượng, Cairo có Đền Al Azhar mosque, Cairo tower, và viện bảo tàng Ai cập, Cairo. Viện bảo tàng Cairo là một trong những VBT lớn nhất thế giới với những tạo tác và di sản từ thời cổ đại với 250,000 mẫu vật có từ 5,000 năm về trước và 11 xác ướp của các triều đại Pharoah Ai cập. Tại đây, bộ sưu tập những báu vật của vua Tutankhamum là nơi được chiêm ngưỡng nhiều nhất.

Sóng Việt Đàm Giang

Sunday, March 9, 2014

Chia Sẻ hay Chia Xẻ



Chia sẻ hay chia xẻ?

Theo như sách Từ Điển Chữ Nôm trích dẫn của một nhóm soạn giả nổi tiếng của Viện Việt Học thì cả hai chữ này (sẻ và xẻ) đều đã có từ lâu và là chữ Hán Nôm đã phiên âm sang chữ Quốc ngữ.


Sẻ hay xẻ đều viết giống nhau trong Hán Nôm là sĩ. Sách Viện Việt Học có hai thí dụ như sau
Cho chữ XẺ
Xẻ (sĩ) : Vừng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường (Kiều, câu 1525-1526)

Cho chữ SẺ (sĩ)
Định tình Sinh mới sẻ bày
Duyên chi may lại phen này gặp nhau (Hoa tiên, câu 643-644)


 Chia sẻ nói lên hoặc hàm ý một điều nặng về tinh thần hơn (mặc dù cũng có thể chất) và có tính vị tha, tích cực: chia sẻ kiến thức, chia sẻ tình thương, chia sẻ miếng cơm manh áo. Vì thế khi nói nhường bớt phần ăn, hoặc áo mặc, hoặc tiền bạc để giúp người khác, từ ngữ chính xác phải dùng là nhường cơm sẻ áo (hiểu về tinh thần).
Nhường cơm sẻ áo- Đùm bọc, cưu mang giúp đỡ nhau trong khó khăn hoạn nạn.

Còn chữ XẺ thường dùng riêng và chỉ về sự chẻ đôi, tách biệt, xé ra và nghiêng về vật chất. Thí dụ xẻ núi bạt đồi, xẻ đôi miếng vải, cưa xẻ thân cây, xẻ thịt một con thú, quần bị xẻ toạc.... hay ví von như vầng trăng xẻ đôi…


Tài liệu chép lại trên internet (không kiểm chứng/svdg)

(1)- Đồng Âm Dẫn Giải và Mẹo Luật Chính Tả – Trần Văn Thanh – Việt Nam Tu Thư xb – Soạn giả đã kê cứu:
-Việt Nam Từ Diển (Hội Khai Trí Tiến Đức)-1931
-Hán Việt Từ Điển (Đào Duy Anh)-1932
-Những lỗi thường lầm trong sự học Quốc văn (Đông Hồ và Trúc Hà) –Saigon-1936
-Đồng âm vận tuyển (Trần Văn Khải)-1949
-Những ký chú trích ở Danh từ Khoa học (Hoàng Xuân Hãn)
-Đại Nam Quốc Âm tự vị (Huình Tịnh Của/ Paulus Của)
*-“xẻ”: bổ dọc ra, xẽ gỗ, mổ xẻ, chia xẻ.
(2)- Tự Điển Việt – Hoa –Pháp (Eugène Gouin)
*-“Chia xẻ: partager, couper, fendre”
(3)- Pháp Việt từ điển (Đào Đăng Vỹ)-1961
*- “Chia xẻ: partager // division.
(4)- Vietnamese English student’s Dictionary (Nguyễn Đình Hòa)-1967
*- “Chia xẻ: to share (with)
(5)- Từ điển Việt Anh (Bà Võ Lăng) [Nhà xb Tổng Hợp Tiền Giang – 1991-]
*- “Chia xẻ”: to divide up, dismember, to share (trouble, griefs, pleasures etc…)
(6)- Từ Điển Anh Việt (Nguyễn Văn Khôn) Nhà xb tp. HCM.
*- to share someone’s opinion: đồng ý với người nào.
- to share (in) someone’s grief: chia buồn với người nào.
- He shares (in) my troubles as well as my pleasures: nó chia vui xẻ cực với tôi.

Theo Nguyễn Trung Hiếu:
….
Trong thực tế, hai từ nói trên đều đã hiện diện trong kho tàng ngôn ngữ Việt Nam rất lâu, từ trước thế kỷ 20. Cả hai từ này là tiếng Nôm, riêng biệt và có nghĩa. (xem phần trên/dg)
Tự điển chữ Nôm của Nguyễn Quang Xỹ và Vũ Văn Kính giải thích: sẻ là loại chữ hài thanh, cấu tạo bởi bộ thủ (tay –ý) + (sĩ - âm): san sẻ, chia sẻ.
 Còn từ xẻ, loại chữ giả tá, có cấu tạo Hán đọc là xỉ: xẻ gỗ, xẻ rãnh.

 Điều đó càng rõ ràng hơn khi cuốn tự vị tiếng Việt đầu tiên (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị) xuất bản cách đây hơn một thế kỷ (1895), học giả Huình Tịnh Paulus Của, phân loại cả hai từ trên đều là tiếng Nôm và nghĩa được chú giải rành mạch: Mục từ sẻ được ghi: mở ra, dở ra, giương ra, trải ra. Và xẻ - cắt dài, mổ ra làm hai.
Đến cuốn “Việt Nam Tự Điển - 1931” của Hội Khai trí Tiến Đức khởi thảo, sẻ được giải nghĩa: San chia ra. Sẻ bát cơm làm hai; nhường cơm sẻ áo. Còn từ xẻ - (nghĩa 1) bổ dọc ra: xẻ gỗ. Vì lẽ này phần thành ngữ trong Từ điển Việt Nam do Viện Ngôn ngữ ấn hành năm 1998, sử dụng chúng khá rạch ròi. Ví dụ cả hai đi với từ chia (làm ra từng phần từ một chỉnh thể): chia sẻ - cùng chia với nhau để cùng hưởng, cùng chịu (thành ngữ: Nhường cơm sẻ áo). Và chia xẻ - chia ra từng mảnh và không làm cho nguyên khối nữa (TN - Chia năm xẻ bảy). (Nguyễn Trung Hiếu)


Tóm lại

 Theo như tìm hiểu và giải thích sưu tầm nhiều nơi thì (chia) sẻ và (chia) xẻ có hai nghĩa khác nhau nhưng tựu trung hiện nay thì đều hiểu nghĩa như là chia nhau san sẻ cùng nhau.

CHIA SẺ là chữ nên viết cho đúng chính tả khi nói về san sẻ (nặng về tinh thần). Sự hiện diện của chữ CHIA XẺ  thay vì viết đúng nghĩa cho chia sẻ khởi đầu có lẽ do cách phát âm X va S từng vùng tạo nên và vẫn tiếp tục luân chuyển cho đến hiện tại.

Sóng Việt Đàm Giang