Saturday, July 30, 2016

Thăm Vùng Vịnh San Francisco.2.SVĐG

Thăm Vùng Vịnh San Francisco. 2
Sóng Việt Đàm Giang

Golden Gate Bridge. Cầu Cổng Vàng Vịnh Cựu Kim Sơn


Golden Gate Bridge là một cây cầu treo nổi tiếng ở vùng vịnh San Francisco, California, Hoa Kỳ. Trong nhiều năm (từ 1937-1964) cầu này là cây cầu treo dài nhất trên thế giới.
Hôm nay có nhiều sương mù nên hình chụp không rõ. Năm 2002 trời có nắng, hình đẹp hơn.




Cây Cầu Cổng Vàng (The Golden Gate Bridge) của Vịnh Cựu Kim Sơn dài 6,450 ft = 1.22 miles = 1966 mét, kể từ trụ chống (abutment) phía bắc tới trụ chống phía nam, không kể các phần tiếp giáp. Cây cầu này được sơn màu đỏ cam, một màu sắc tương phản với màu xanh và màu lục (green) của môi trường chung quanh, nhưng lại hòa hợp với các màu nâu và đỏ của các ngọn đồi ở phía bắc.

Cây Cầu Cổng Vàng (the Golden Gate Bridge) là một trong các cây cầu treo đẹp nhất và to lớn nhất trên thế giới. Cây cầu này rất vĩ đại nếu xét về các tháp cao, các sợi dây cáp khổng lồ và chiều dài quá mức của các nhịp cầu.
Cây Cầu Cổng Vàng được đặt tên như vậy bởi vì nó nối Eo Biển Vàng (the Golden Gate Strait), đây là phần biển thu hẹp giữa Thái Bình Dương và Vịnh Cựu Kim Sơn (San Francisco). Eo biển này dài 3 dặm (miles), rộng 1 dặm, sâu 300 ft (90 m), có giòng nước chảy với tốc độ từ 4.5 tới 7.5 knots, là cửa ngõ ra biển của các thành phố hải cảng của vùng Vịnh và của hệ thống sông ngòi Sacramento-San Joaquin.

Khởi đầu, eo biển này có lẽ đã được Sir Francis Drake nhìn thấy vào năm 1579 nhưng thực sự được khám phá vào năm 1769 do nhóm người thám hiểm do Francisco de Ortega đứng đầu. Đại úy lục quân Mỹ là kỹ sư địa hình John C. Fremont đã gọi eo biển này vào năm 1846 là “Chrysopylae” hay “Cổng Vàng” (Golden Gate) bởi vì ông ta tưởng nhớ tới hải cảng Bosporus thuộc thành phố Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, có tên là “Chrysoceras” hay “Chiếc Sừng Vàng” (Golden Horn).
Bắt đầu xây dựng cầu vào ngày 5/01/1933, Cây Cầu Cổng Vàng được hoàn thành và mở cửa cho khách bộ hành vào ngày 27/5/1937 rồi ngày hôm sau bắt đầu các xe cộ qua lại. Tới năm 1971, trái phiếu cuối cùng của món nợ $35 triệu Mỹ kim đã được thanh toán cùng với $39 triệu Mỹ kim tiền lời, tất cả do lệ phí qua cầu (tolls) mang lại.
Cây Cầu Cổng Vàng vùng Vịnh là một phương tiện chính nối thành phố San Francisco với các khu vực ở phía bắc. 
Cầu Golden Gate được xây dựng ở một nơi khá nguy hiểm. San Francisco ở gần một đường đứt gãy, do đó, luôn luôn có sự nguy hiểm của động đất. Năm 1906, một trận động đất gây ra thiệt hại rất lớn tại thành phố này. Để có thể chống lại sự động đất này, các kỹ sư cầu được sử dụng hơn một triệu tấn bê tông để xây dựng các điểm neo giữ cáp tại chỗ.
Gió mạnh thổi từ Thái Bình Dương có thể làm cho cây cầu lắc lư từ bên này sang bên kia. Ngay cả khi chúng đạt đến 160 km một giờ, cây cầu sẽ vẫn đứng cao. Kỹ sư xây dựng cầu để nó có thể lắc ngang tối đa lên đến 8 mét!

Cáp khổng lồ - Dây cáp cần đủ mạnh để nắm giữ lên boong nặng. Chiều dài dây cáp là 7650ft (2331.7 m). Nó nặng hơn 24,500 tấn. Dây cáp lớn có đường kính 92.4 cm. Họ đã phải làm các dây cáp lớn từ các dây dẫn nhỏ hơn. Phải mất 80,000 miles (128,748 km) đường dây để làm dây cáp này.
Khi dựng cầu thì không có một cần câu nào lớn đủ để nâng các loại cáp nặng, do đó, họ không thể được thực hiện tại một nhà máy và đưa đến cây cầu. Các dây cáp này đã được thực hiện bởi một máy đặt ngay bên cạnh cây cầu và sau đó được kéo qua hai tháp. Hình dây cáp cắt ngang như dưới đây:



Đường kính của dây cáp chính: 36 3/8 in. = 0.92 m
Chiều dài của một dây cáp chính: 7,650 ft = 2,232 m
Tổng số các sợi dây thép xử dụng: 80,000 miles = 129,000 km
Số sợi nhỏ trong mỗi sợi cáp lớn: 61
Trọng lượng của các sợi cáp chính, phụ và phụ tùng: 24,500 tấn = 22,200,000 kg

Từ địa điểm chiêm ngưỡng Cầu Cổng Vàng, Th. sau đó đã lái xe qua Fishermans Whartf/Pier 39. Parking garage khu này đắt khủng khiếp!
Pier 39 (Bến Tàu số 39) nằm gần Fisherman’s Wharf (Bến Ngư Phủ), khu North Beach gần Chợ Tàu, và bến Embarcadero, bến tàu ngày xưa. Từ đây chúng ta có thể nhìn thấy hai đảo Angel và Alcatraz, và hai cầu Cầu Cổng Vàng (Golden Gate) và Cầu qua Vịnh (Bay Bridge).
Pier 39 (Bến Tàu số 39) là một trung tâm thương mại (Shopping center) , không phải là bến cho tàu bè đậu, gồm  nhiều tiệm , quán ăn, quán nhậu, và nhiều cơ sở giải trí nhiều tiệm tùng bán hàng kỷ niệm cho du khách, nhiều quày bán trái cây organic vừa hái từ các nông trại đem đến, nhiều cuộc biểu diễn cho trẻ con, hát xiệc, ca nhạc, ảo thuật v.v. và đặc biệt là nơi có nhiều sư tử biển (sea lions) tá túc.





  
 Từ Pier 39 nhìn sang đảo có nhà tù Alcatraz rất rõ. Alcatraz là một hòn đảo nhỏ nằm giữa vịnh biển. Đây là đảo tù nổi tiếng, nơi đã từng giam tội phạm người Ý lừng danh Al Capone. Nay thì di tích nhà tù còn nguyên, trở thành một điểm du lịch bằng tàu từ trong bờ ra thăm đảo. Du khách đến Alcatraz để xem trại tù nổi tiếng một thời là không tù nhân nào có thể trốn trại được vì điạ thế của đảo và nước lạnh cóng của vùng vịnh. Phim ‘Escape from Alcatraz’ (Vượt thoát từ Alcatraz) do tài tử lão thành Clint Eastwood đóng dưạ vào chuyện có thật.
Nước biển bên bờ Tây (West Coast) cuả Mỹ lúc nào cũng lạnh là vì những dòng nước lớn trên mặt đại dương (surface ocean current) ở Bắc Bán Cầu di chuyển theo hướng chiều kim đồng hồ (clockwise) từ Bắc cực xuống Xích đạo rồi vòng trở lên Bắc cực. Ngược lại, ở Nam Bán Cầu thì dòng nước chuyển ngược chiều kim đồng hồ (counter-clockwise). Có lẽ vì vậy mà San Francisco lạnh quanh năm, mùa Hè cũng cần phải có áo ấm. Trời lúc nào cũng đầy mây và sương mù lại thêm gió biển thổi vào làm tăng thêm cái lạnh
 Đã viếng Alcatraz lần trước kỳ này tôi chỉ chụp hình từ xa mà không đi thăm Alcatraz.
  

Cũng như các du khách khác, lần này chúng tôi cũng đi ra khu K-Dock của Pier 39 nơi thường có sư tử biển (sea lions) phơi nắng và làm ồn ào để nhìn chúng, nhưng hôm nay chẳng có bóng một chú nào hết!
Tìm hiểu lý do trên internet thì được biết rằng đám sư tử biển mang tên sư tử biển California (Zalophus californianus) rủ nhau tới đây bắt đầu từ tháng giêng năm 1990, sau vụ động đất Loma Prieta và sóng thần ngoài khơi vịnh San Francisco năm trước (1989). Lúc ban đầu chỉ có gần 20 con đến đây tạm trú tại K-Dock của Pier 39. Vài tháng sau con số nầy tăng thành khoảng 300 con. Những tháng mùa đông, bầy sư tử biển nầy đông hơn, có thể lên đến 900 con, phần lớn là con đực. Thông thường vào mùa hè nắng ấm tháng bảy, chúng di chuyển về đảo Channels ở miền Nam để tìm tình yêu, thực hiện nhiệm vụ con cái yêu đương và trở lại đây khoảng cuối tháng 8. Đám sư tử biển này thường nằm đầy tại K-Dock  gần Pier 39 và 40. Kỳ này vì tôi đến đây vào cuối tháng 7 nên mất cơ hội nhìn lại sư tử biển.


Và lẽ dĩ nhiên thăm viếng Pier 39 thì phải nhắc đến hải sản, thức ăn tôm, cua cá  tại khu này nhiều thức ăn ngon vô cùng. Nơi đây có món súp clam chowder nóng trong ổ bánh mì chua tròn (sourdough bread bowls), một món ăn độc đáo của San Francisco từ khoảng những năm 1850s. Th và H cất công sắp hàng mua để đãi hai chị em chúng tôi. Nóng và ngon quá, nhưng tiếc quá vì thời gian gấp rút, chúng tôi không thể ngồi nhâm nhi xé bánh mì chấm súp như lần trước, mà ăn vội ăn vàng phần súp và một phần bánh mì, rồi cậu em tôi mang chia bánh mì với bày chim hải âu xà xuống xuống dành ăn. Uổng quá!

Đã thăm viếng Lombard St, Cung điện Nghệ Thuật, và Fisherman’s Wharf/Pier 39. Th và H. nói còn một địa điểm đáng thăm cho một ngày thăm viếng San Francisco. Đó là thăm trạm xe cáp điện móc ngầm (cable car).
Đặc điểm của thành phố San-Francisco là  phương tiện di chuyển gọi là “cable car” chạy trong 3 tuyến phố. Trông thì giống như xe điện, nhưng lại không chạy bằng điện mà chạy bằng cáp, được làm từ năm 1873 tức đã 143 tuổi mà vẫn tồn tại cho đến nay không thay đổi, chủ yếu phục vụ du lịch.
Cái độc đáo của loại phương tiện này là nó giống xe điện ở bánh rày hai bên gầm toa, ở phía giữa thì còn một móc kéo thòng xuống hệ thống cáp ngầm dưới mặt đất. Xe chạy được là nhờ cáp ngầm kéo đi. Ban đầu, nghe nói, người ta dùng sức người kéo cáp, nay thì có hệ thống máy móc vào để kéo.
Cái loại phương tiện này thu hút du khách, ai cũng muốn leo lên để tán thưởng một thành tựu máy móc của những năm tháng xa xôi, cùng nghe tiếng chuông reo, và thấy tận mắt cảnh dùng sức người để quay đẩy toa xe mỗi khi đi đến đoạn cuối phải quay hướng lại.

Xe cable car chạy chậm so với xe bus hay xe điện và hầu như chỉ phục vụ du khách, giá vé đắt gấp 4 lần phương tiện chuyên chở khác và thường thì phải xếp hàng mới có cơ hội leo lên.

 Những phương tiện chuyên chở công cộng của vùng vịnh San Francisco.
Nói đến San Francisco chúng ta liên tưởng đến cable car cổ truyền, nhưng nếu nói đến phương tiện chuyên chở công cộng thì có thể nói vùng vịnh này có những phương tiện chuyên chở rất cấp tiến và đắc lực.
Hệ thống MUNI.
Muni là hệ thống chuyên chở chính của SF. Nó bao gồm tất cả hệ thống xe bus, xe bus chạy điện trên nóc xe (trolleybus), xe đường phố (street car) và xe cáp móc dưới gầm xe (cable car), những hệ thống này có dịch vụ đến những địa điểm du khách thăm viếng, khu mua sắm thương hiệu, và khu gia cư nằm trong giới hạn của thành phố. Lộ trình và bản đồ có thể thu thập trên internet.
 Vé có thể dùng cho tất cả các loại kể trên khi di chuyển trong thành phố. Nếu mua cuốn passport thì có thể mua vé cho một ngày ($20.00), ba ngày ($31.00), hay 7 ngày ($40.00). Muni passports chỉ dùng cho Muni thôi, không dùng cho BART, những tour bus khác (thí dụ như Hop ON Hop OFF) hay di chuyển đi và đến phi trường (giá vé trên là cho năm 2016).
Hệ thống xe dây cáp ngầm của SF là hệ thống duy nhất còn lại trên thế giới vẫn xử dụng sức người điều khiển bằng tay. Trong giai đoạn khởi đầu từ 1873 đến 1890 với 23 tuyến nay còn hiện hữu ba tuyến duy nhất. Hai tuyến Powell-Mason, Powell-Hyde  chạy từ dưới phố (downtown) gần Union square đến Fisherman’s Wharf và  tuyến California chạy dọc theo phố California.
Thống kê cho biết trong số 7 triệu hành khách hàng năm của cable car thì số lớn là du khách. Có thể nói đi cable car là một trong những  điều ưa thích nhất của du khách cùng với thăm Cầu Cổng Vàng, nhà tù Alcatraz, và Fisherman’s Wharf. Tưởng cũng nên nhắc là cable car này hoàn toàn khác biệt với những street car chạy trên đường Market và Embarcadero.


 Cable car lines. Map  
 
 Trolleycar/streetcar (tram)             
Trolley Bus
 Hai tuyến Powell-Hyde và Powell-Mason di chuyển xuyên qua những khu đồi dốc nhất nằm phía bắc của con đường ngoằn ngoèo Lombard, mỗi tuyến có những kích thích thú vị riêng và hai tuyến này rất đuợc du khách ưa thích , luôn luôn đông người. Dù đi bất cứ đường nào, chúng ta cũng vẫn có cái thú vị nhìn cảnh chung quanh, hưởng gió mát, cùng nghe người lái xe kéo chuông. Cable car cũng có riêng một bảo tàng nằm tại 1201 Mason Street trưng bày những xe cable cổ và cho xem các xe cable được dùng ra sao.
Streetcars. Một streercar hay xe tram dùng track trên đường và dùng một dây điện và một pole trên nóc xe (pantograph) để chạy.
Khác với streetcar với một hàng dây điện và một pole nói trên, trolleybus là xe bus chạy bằng điện, với hai hàng dây điện và hai poles dùng để truyền điện cho xe bus trên nóc xe.  Cũng cần phân biệt với xe bus chạy điện, một loại xe bus chạy hoàn toàn bằng điện đã charged (batteries). Điện thường là 600 volt.
 Bay Area Rapit Transit (B.A.R.T.)

 Phương tiện chuyên chở nhanh chóng vùng vịnh BART đuợc người Việt trong vùng gọi là BẠT là một dịch vụ chuyên chở bằng xe điện (train) nối liền San Francisco với Peninsula và những thành phố  vùng vịnh đông (East Bay cities) và hai phi trường SFA và OAK.

 Trong thành phố BART chuyên chở nhanh chóng giữa SF và Mission District nơi có nhiều nhà hàng ăn, quán rượu, và nhạc sống. Trong Vịnh Đông, BART là phương tiện tốt để đến những địa điểm như Oakland Coliseum, Oracle Arena, và UC Berkeley. Th. cho tôi biết là mùa thu năm 2017 thì San Jose sẽ có BART Extension và chở  khách đi vào hệ thống BART trung ương.
Ngoài ra còn có phương tiên di chuyển bằng phà (ferries) đến những đảo nhỏ trong vùnh Vịnh như Sausalito, Angel Island, Tiburon v.v…
 Sẽ nói tiếp khi có cơ hội đi thăm. Có thể là lần tới chăng?
Đến5 giờ chiều thì Th lái xe cho chúng tôi trở về Fremont, Th lái vòng qua Embarcadero dẫn tới I80  để qua cầu Oakland Bay Bridge . Cái cầu Bay Bridge có hai decks này cũng có nhiều điều thú vị đáng kể.
Cầu Oakland-Bay Bridge
Nếu cây Cầu Cổng Vàng SF nổi tiếng vì cảnh đẹp, du khách đến chiêm ngưỡng thật nhiều và đã được ca tụng trong thơ văn nhạc, thì cây cầu Bay Bridge mới chính là cây cầu huyết mạch cho sự lưu thông qua lại từ vùng San-Jose, Fremont, Oakland và  San Francisco.
Cầu qua vịnh San Francisco-Oakland được dân địa phương gọi tắt là "Cầu qua Vịnh" (Bay Bridge) là một cầu, có thu phí, bắc qua Vịnh San Francisco nối 2 thành phố San Francisco và Oakland. Là một phần của I80, đây là một trong những cây cầu nhộn nhịp nhất Hoa Kỳ, có trên dưới 280,000 xe đi qua cầu mỗi ngày.
                                                          

Phần cầu hai tầng bên San-Francisco          
Cầu San Francisco-Oakland Bay Bridge, do kỹ sư Charles H. Purcell thiết kế, có chiều dài 4.46 miles (7.18km) gồm hai khúc nối với nhau bằng một đường hầm tại đảo Yerna Buena. Vì thành phần đất và nước ở hai thành phố bên tây và bên đông khác nhau nên cây cầu đã đuợc thiết kế với hai loại cầu khác nhau.
Hai khúc riêng biệt nối mỗi bên với  đảo Yerba Buena - một hòn đảo giữa vịnh. Phía cầu dây văng từ San Francisco đến đảo -bao gồm hai nhịp dây văng với trụ dây văng ở giữa nối trụ tiếp bờ ở San Francisco với trụ cáp phía Tây ở Đồi Rincon. Khúc phía đông cầu treo nối Oakland và đảo Yerba Buena. Cầu được khánh thành và đưa vào sử dụng ngày 12/11/1936 trước Cầu Cổng Vàng 6 tháng. Chi phí xây cầu là 79,5 triệu USD (thời giá những năm 1930s). Hai tầng cầu có bề ngang 57.5 ft (17.5 m) chia làm 5 lanes. Xe di chuyển hiện tại là một chiều. Cầu mới mở đã được hưởng ứng rất cao, dân địa phương đã chuyển từ đi phà sang đi qua cầu trả lệ phí như đòi hỏi.

Lúc đầu cầu cho đi hai chiều ở tầng trên, tầng dưới dành cho xe vận tải và xe đường rày. Cho đến năm 1958 thì hệ thống đường rày qua cầu đuợc hủy bỏ và tầng trên được dùng cho đi một chiều từ Oakland sang San Francisco gồm tất cả xe nhà và xe vận tải. Tầng cầu dưới được dùng một chiều cho di chuyển từ San Francisco qua Oakland. Sự thay đổi này đã mất một thời gian khá lâu vì tầng deck ở khúc Yerba Buena phải làm thấp xuống để cho có đủ chiều cao cho xe vận tải đi qua ở tầng trên. Cho đến năm 1971, để khuyến khích mọi người đi chung xe, lệ phí qua cầu được giảm bớt cho những xe có hai người trở lên (high occupancy vehicles/HOV). Cho đến năm 1975 thì xe HOV không phải đóng lệ phí qua cầu.
Sự giao thông qua cầu có quy luật chặt chẽ và xe được hướng dẫn kỹ lưỡng để đang từ trên 10 lanes xuống 5 lanes và carpools cùng xe buses được qua lại không khó khăn. Trong một giờ ước lượng số xe qua cầu trong thời điểm gia thông cao có thể lên hơn 500 xe một giờ. Những xe có một người mà  đi sang lane cho HOV sẽ bị phạt ngay  $381.00.

Ghi chú. Phần cầu nối liền Oakland với đảo Yerba Buena đã bị hư hại nặng nề sau cơn động đất tháng 10 năm 1989. Cầu mới cho phần này được khởi công xây dựng từ năm 2002 cho đến 2013 mới hoàn tất.


Hình internet
Vì qua cầu Bay Bridge nhằm giờ tan sở nên cũng mất cả giờ mới về đến Fremont.

Muốn thăm viếng những địa danh của San Francisco thì có lẽ cần phải có ít nhất là ba ngày, nhưng vì chỉ có một ngày nên thăm được như vậy cũng quá tốt rồi.
Thăm viếng San Francisco lần này, tôi đã có một ngày vui thật vui. Vẫn nghe nói đi chơi có bạn đồng hành cùng chung sở thích thì sự hào hứng tăng thêm rất nhiều. Thật đúng quá là đúng, tôi thật sự vô cùng hào hứng có dịp được vợ chồng Th. và H. đưa đi chơi và lo chu toàn mọi sự. Cảm ơn Th-H. rất nhiều.

Sóng Việt Đàm Giang

 Ghi chú. Th. chụp tặng một số hình

No comments:

Post a Comment