Friday, September 2, 2016

Du Lich Nam Mỹ. Buenos Aires. Argentina. SVDG

Du Lịch Nam Mỹ. Buenos Aires. Argentina.
Sóng Việt Đàm Giang


Bài viết về Buenos Aires, Argentina là bài viết thứ ba trong loạt bài Du Lịch Nam Mỹ, sau phần du lịch Rio de Janeiro và thăm thác Iguazu.

Buenos Aires là thủ đô và là thành phố lớn nhất và cảng lớn nhất của Argentina. Thành phố  nằm trong vùng pampass, bên bờ phía nam của Rio de la Plata, duyên hải đông nam của Nam Mỹ. Dân số cỡ 3 triệu người.Đây là một thành phố nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc đặc sắc, sinh hoạt văn hóa năng động, và có nhịp sống về đêm vô cùng hào hứng.
 Buenos Aires chia ra từng khu vực  quanh Plaza de Mayo và Microcenter là vùng Plaza San Martin và Retiro,  rồi đến Recoleta  và Palermo ở phía tây bắc, San Telmo và  La Boca ở phía nam.



Thời gian dành cho Buenos Aires là bốn ngày ba đêm. Trong ba ngày thì một ngày dành cho chuyến du lịch ra khỏi thành phố thăm viếng một trang trại nuôi bò, trừu (Argentinean Estancia), một ngày đi thăm viếng hầu hết những vùng chung quanh Plaza de Mayo, và một ngày tự do muốn thăm đâu tùy ý.

Thăm viếng thành phố Buenos Aires


Buenos Aires có Đại Lộ 9 Tháng 7 Ave 9 de Julio, đây  là đại lộ rộng nhất thế giới. Tên đại lộ được đặt để kỷ niệm Ngày Độc Lập 9 Tháng 7 năm 1816. Đại lộ này có chiều rộng bề ngang 140 m (460ft), có 7 lanes  mỗi chiều. Hai bên lại có thêm hai con đường có hai lanes mỗi đường nữa, vị chi tổng cộng 18 lanes.
Quảng trường chính nổi tiếng của Buenos Aires là Quảng Trường Tháng 5 (Plaza de Mayo), nơi được coi như tượng trưng cho trái tim của Buenos Aires. Ngày xưa nó là khu chợ  trời, nơi gặp gỡ của đủ mọi thành phần dân thành phố. Hiện nay nó là nơi tập trung  của cơ quan hành chánh, dịch vụ thương mại, và văn hóa âm nhạc.


Tòa nhà Casa Rosada, hay dinh Tổng thống, đuợc mang danh Nhà Hồng, do mặt tiền rất sáng mầu hồng do sơn phết với một hỗn hợp whitewash và oxblood. Tòa nhà được xây cất vào giữa 1862-1885. Nổi tiếng là nơi bà Eva Peron đã đứng trên balcony và chào đón dân chúng.

Nhà bank quốc gia, do nhà kiến trúc Bustillo thiết kế và xây dựng năm 1943. Vào thời đó nó là nhà băng có mái vòm lớn nhất Latin America và là toà nhà đầu tiên có thang máy escalator.


Nhà thờ Metropolitana, Cetedral Metropolitana, là nhà thờ Công giáo chính ở thủ đô Argentina. Vào năm 1580, nhà sáng lập ra Buenos Aires Juan de Garay đã chỉ định một mảnh đất làm nơi đặt địa điểm nhà thờ lớn đầu tiên của thành phố. Ngày nay mảnh đất đó chính là vị trí nhà thờ. Công trình được các kiến trúc sư Châu Âu xây dựng, pha trộn các kiến trúc thế kỷ 18 và 19 và hoàn tất vào năm 1836. Mặt tiền nhà thờ có 12 cây cột Corinthian/Hy Lạp, đại diện cho 12 tông đồ. Phía trên dãy cột khắc một bức tranh tường miêu tả lại giây phút đoàn tụ của Jacob với con trai Joseph . Phía trong nhà thờ có những lối đi uốn vòm cao, các ngôi mộ, bức bích họa và đồ vật trang trí. Nơi đây có lăng mộ Tướng Jose de San Martín bằng đá cẩm thạch. Ông là vị tướng lừng danh trong lịch sử Argentina, đã chỉ huy cuộc cách mạng chống lại chế độ cầm quyền Tây Ban Nha ở Argentina và các quốc gia Nam Mỹ khác.



Bút tháp Mayo kỷ niệm Cách mạng tháng Năm 1810.


Tòa Đô Chính


Cabildo de Buenos Aires là một trong những tòa nhà chính phủ quan trọng nhất trong thành phố. Tòa thị chính trong thời kỳ 1748-1821 là nơi họp mặt của hội đồng hành chính, và là nơi diễn ra các cuộc họp quan trọng dẫn đến một Argentina Độc lập khỏi Tây Ban Nha. Nơi đây có nét kiến trúc độc đáo của Tây Ban Nha và có chứa những di tích lịch sử liên quan đến cuộc Cách mạng Tháng 5 năm 1810 của Argentina. Tòa nhà xây cất từ năm 1608 đã  bị phá bỏ một phần, lấy chỗ xây dựng hai con phố bên cạnh, và đã được trùng tu lại vào năm 1940 để duy trì các nét đặc trưng như tòa tháp, hành lang dẫn ra sân trong với cửa vòng cung, cửa ra vào và cửa sổ.

Nhà hát lớn Colon
Nhà hát Colon (Teatro Colón hay Columbus Theatre) là nhà hát Opera lớn nhất thủ đô Buenos Aires và Argentina. Hệ thống âm thanh ở đây được xếp hạng một trong 5 hệ thống hay nhất thế giới. 
Nhà hát Colon được xây vào năm 1908, tại địa điểm của một nhà hát cũ hơn được xây ở đây vào năm 1857. Hội trường hình móng ngựa, cao bẩy tầng, có 2,487 chỗ ngồi, chứa thêm được 1,000 ngưới đứng, sân khấu rộng 20m, cao 15m, sâu 20m. Nhà hát mới được khai trương vào ngày 25 tháng 5 năm 1908 với vở Opera Aida của soạn giả  người Ý tên Giuseppe Verdi. 


Photo internet

 A Tango  on Florida Street


San Telmo
Cách khu Microcenter không xa là khu San Telmo.
San Telmo là khu vực (barrio) nằm cách Plaza de Mayo 6 con phố, có những con phố lát gạch, nối liền phía bắc là Microcenter, phía nam là  La Boca, phía đông là Puerto Maldero, và phíc tây là Avenida 9 de Julio. Đây là barrio cũ nhất của Buernos Aires hiện diện từ thế kỷ thứ 17 là nơi những người phu khuân vác làm việc tại bến tàu và thợ xây cất sinh sống. Khu này rất nghèo, và bệnh dịch hạch xẩy ra vào cuối thế kỷ thứ 19 với hơn 10,000 tử vong đã làm dân khu này bỏ đi nơi khác sinh sống. Và sau đó những di dân từ Âu châu đổ qua mưu sinh và tụ tập ở nơi này. San Telmo bắt đầu lôi cuốn giới nghệ sĩ tứ phương và dần dần là điểm nóng cho tango. Khu San Telmo rất nhộn nhịp và vui. Nghệ sĩ trình diễn đủ loại nhưng đáng kể nhất phải là vũ điệu tango do các cặp nghệ sĩ biểu diễn tại plaza Dorrego.
 
A Tango on the street

Khu này có những nơi đáng xem như nhà thờ Cơ đốc Nga, nhà thờ Basilica of San Francisco, và  đặc biệt vì lý do méo mó nghề nghiệp người viết không thể không đặt chân vào Dược phòng cổ nổi tiếng của San Telmo, Farmacia Estralla Homeopattia.
Pharmacy La Estralla (Defense 201. Monserrat) là một phần của lịch sử quốc gia. Bác sĩ Bernardino Rivadavia là người sáng lập ra dược phòng đầu tiên trong thành phố Buenos Aires vào năm 1834. Và rồi nhiều dược phòng khác cũng bắt đầu xuất hiện. Đến năm 1885 thì Farmacia La Estralla đuợc khánh thành tại địa điểm hiện tại với tất cả huy hoàng lộng lẫy trong dược phòng như kính Murano, kệ hàng bằng gỗ walnut, mặt quầy hàng bằng đá cẩm thạch Carrara, và trần nhà là tác phẩm của họa sĩ  Barberis miêu tả những tượng trưng của “sức khỏe”, “bệnh tật”, và “thuốc men” (health, disease, pharmacopeia). Phía ngoài cửa vào cũng giữ nguyên những công trình cổ xưa với khung sắt đen trang hoàng. Hiện nay tiệm thuốc vẫn mở cửa và tiếp tục bán thuốc, dược thảo, nước hoa, v.v…










La Boca
Khu La Boca nằm ngay cạnh San Telmo về phíc nam. Khu này nổi tiếng với du khách vì  có những căn nhà sơn phết màu sắc rực rỡ khác nhau, với con phố đi bộ, với Caminito nơi mà nghệ sĩ biểu diễn nhảy tango và bán đủ loại kỷ niệm về tango. Khu vực này chỉ dài có vài blocks hầu như để cho du khách chiêm ngưỡng. Ngoài khỏi khu này thì là nơi mưu sinh của dân nghèo và không mấy an ninh cho khách.

Caminito (có nghĩa là lối đi nho nhỏ) là một hành lang hay gọi là bảo tàng ngoài phố, và là nơi có ý nghĩa cho âm nhạc Argentina và là nơi nhà soạn nhạc Juan de Dios Filiberto đã có hứng tạo nên bản nhạc tango nổi tiếng Caminito (phát hành ngày 26 tháng 11, 1926).

La Recoleta
Rời khu San Telmo và La Boca, đi lên phía bắc của khu Centro là khu Recoleta. Khu Recoleta là một khu rất đáng chú ý trong lịch sử và kiến trúc ủa thành phố này, và đáng kể nhất chính là nghĩa trang Recoleta. Đây cũng là khu được xem là có ảnh hưởng và khu có tư gia đắt giá nhất của thành phố Buenos Aires.
La Recoleta được biết đến là nơi an nghỉ cuối cùng của những người giàu có nhất và nổi tiếng nhất Buenos Aires. Những lăng mộ đủ kiểu kiến trúc theo cổ điển, Gothic, Baroque v.v…, nằm dọc theo những con đường lát đá của thành phố nhỏ này. Nghĩa trang được xây dựng vào năm 1822 và có hơn 4.500 ngôi mộ. Hơn 90 ngôi mộ trong số này đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia và được chính phủ Argentina bảo vệ. Các ngôi mộ đáng chú ý nhất bao gồm mộ của các tổng thống Argentina, những người đoạt giải Nobel, và đệ nhất phu nhân nổi tiếng nhất của Argentina, Eva Perón, còn được gọi là Evita.
Lối vào nghĩa trang với những cột trụ lớn và chạm khắc tinh xảo. Bước vào bên trong giống như đặt chân đến một thành phố khác. Những con đường chia nhánh ra khắp mọi hướng, cần theo bản đồ chỉ dẫn phát không tại phòng hành chính ở lối vào trước khi bắt đầu thăm viếng.
Mộ của bà Evita được chôn với năm thành viên khác trong gia đình. Ngôi mộ của họ không xa hoa như những ngôi mộ khác nhưng thường xuyên có những bó hoa tươi do khách ngưỡng mộ để lại.






Ngôi mộ của Liliana Crociati de Szaszak, là một trong những ngôi mộ độc đáo trong nghĩa trang với kiến trúc tân kỳ.  Cô là một cô gái trẻ cùng người chồng vừa cưới đã chết trong trận núi tuyết Alpine lở ngày 26 tháng 2, 1970, khi họ đang đi hưởng tuần trăng mật. Những ngôi mộ của các tướng lĩnh quân đội với tượng bán thân ngoài cửa cũng rất đặc biệt.

Piazzolla Tango!
Và chắc chắn đi thăm thành phố này thì phải có một buổi tối đi ăn và xem trình diễn Tango!
Nhà Piazzolla Tango nằm trong khu Guemes Gallery. Từ parking vào nhà hát phải đi qua một hành lang dài của trung tâm Guemes. Buổi ăn tối với thực đơn cổ truyền Argentina với empanadas, ravioli, rượu vang, tráng miệng với bánh dừa.

Một chút Piazzola Tango. Quán Piazzo Tango đặt theo tên của nhạc sĩ Astor Piazolla.
Astor Piazzolla (1921-1992) xuất thân từ một gia đình người Ý nhập cư. Ông sinh ra tại vùng Mar del Plata, nằm cách thủ đô Buenos Aires 400 km về phía nam. Năm lên ba, ông theo bố mẹ sang thành phố New York sinh sống trong vòng hơn 10 năm. Trong gia đình, bố Astor Piazzolla tuy không phải là một nghệ sĩ nhưng lại rất say mê điệu tango, cho nên ông bố mới mua cho con trai một chiếc đàn phong cầm bandoneón, khi Astor mới lên tám. Theo lời kể của chính tác giả, thì ông rất thất vọng khi nhận được chiếc đàn phong cầm. Ông muốn có một chiếc kèn saxo, vì rất mê nhạc jazz chứ không hề thích tango.
 Vào năm 15 tuổi, Astor Piazzolla theo gia đình trở về Argentina (1936). Sau khi học xong tú tài, ông thành lập ban nhạc đầu tiên tên là Cuarteto Azul, bắt đầu đi tìm một cách diễn đạt mới trong cách chơi tango. Vào năm 33 tuổi, ông nhận được một học bổng để sang Paris tu nghiệp trong vòng ba năm.Thầy của ông lúc bấy giờ là nhạc sư nổi tiếng Nadia Boulanger. Ngoài việc dạy nhạc lý, bà Nadia còn chỉ dẫn cho Astor Piazzolla cách định hình tất cả những gì ông đã linh cảm trước kia trong những lúc mò mẫm sáng tác. Sau đó, khi trở về Argentina, Astor Piazzolla sáng tạo ra thể loại Tango Nuevo, còn được gọi là tango đương đại, nâng dòng nhạc này lên đến một tầm cao hơn còn không khô khan khó hiểu. 
Ông bắt đầu nổi tiếng từ giữa những năm 1960 trở đi. 
Những người yêu thích thể điệu tango truyền thống chê bai rằng, khi đưa đàn bass và ghi ta điện vào trong dàn nhạc, và với biến tấu ngẫu hứng như nhạc jazz, thì dòng nhạc của Piazzola không còn là nhạc tango nữa. Nhưng thật ra Astor Piazzola tuy phá cách nhịp điệu, đập vỡ khuôn thước, nhưng ông vẫn giữ được cái hồn, cái cốt của tango, và khi đặt lời cho điệu tango mới, Astor Piazzola tìm cách cởi trói các ràng buộc của dòng nhạc truyền thống, thoát khỏi những sao mòn gắn liền với vũ điệu tango.







No comments:

Post a Comment