Sunday, November 8, 2020

Danh Pháp Kháng Thể Đơn Dòng mab. TNĐG.

 


Danh Pháp Kháng Thể Đơn Dòng

Trịnh Nguyễn Đàm Giang

Lời mở đầu

Trong mọi ngành chuyên môn, tất cả những chữ liên hệ trong một ngành khi được đặt tên thì đều dựa theo một quy chế nào đó, tựu chung thường có một gốc căn và có thể có tiếp đầu ngữ hay tiếp vĩ ngữ thay đổi để tạo ra một nhóm thuật ngữ của một nhóm chuyên biệt. Với khoa học tiến bộ, càng ngày càng nhiều sản phẩm ra đời, trong ngành chuyên môn thí dụ như Y khoa nói chung thì khi những nhà sản xuất, bào chế đặt tên cho sản phẩm của mình đều phải theo một quy luật được quốc tế công nhận.

Monoclonal Antibodies (mAb), kháng thể đơn dòng là những kháng thể chuyên biệt đơn giống nhau tạo nên bởi những tế bào miễn nhiễm giống hệt nhau do được sao chép vô tính (clone) từ một tế bào mẹ duy nhất. Kháng thể đơn dòng có nhiều ứng dụng trong khoa học thực nghiệm. Một sản phẩm kháng thể đơn dòng có thể được dùng để điều trị, chẩn đoán bệnh, hay phòng ngừa bệnh. Ngoại trừ một số dược phẩm mang tên gồm vài chữ và những con số, hầu hết những thuốc dùng trong y khoa có kháng thể đơn dòng đều mang phần tên không sở hữu kết thúc bằng một tiếp vĩ ngữ là –mab. Bài viết sau đây tìm hiểu về lịch sử và quy luật đặt tên thuốc thuộc kháng thể đơn dòng tận cùng bằng chữ –mab cho những sản phẩm kháng thể đơn dòng dùng trong y khoa.

Lịch sử

Năm 1890  Emil von Behring, khoa học gia người Đức trong ngành miễn nhiễm học, với sự cộng tác của Kitasato Shibasaburo khám phá ra rằng độc tố diphtheria tetanus đuợc trung hòa trong máu thú vật bởi những chất mà họ gọi là kháng độc tố cho độc tố chuyên biệt đó. Behring đã nhận được giải Nobel đầu tiên trong Sinh lý học hay Y học do sự khám phá này vào năm 1901. Một năm sau đó Paul Ehrlich đã dùng từ kháng thể cho những kháng độc tố đó. Và sau đó khái niệm về “viên đạn mầu nhiệm” (magic bullet) đã được hoàn toàn chấp thuận cho kháng thể đơn dòng.

Nguyên tắc chế kháng thể đơn dòng, được gọi là kỹ thuật lai giòng chuỗi tế bào (hybridoma), được hai khoa học gia César Milstein (người gốc Argentine) và George J.F. Kohler  (người Đức) thực hiện thành công và công bố lần đầu tiên vào năm 1975. Và sau đó Georges Kohler, César Milstein cùng với Niels K. Jerne đồng nhận được giải thưởng Nobel Sinh lý học hay Y khoa vào năm 1984 “cho lý thuyết liên quan đến chuyên biệt trong việc phát triển và kiểm soát  hệ thống miễn nhiễm, cùng khám phá ra nguyên tắc để sản xuất kháng thể đơn dòng.”Muromonab-CD3 là chất kháng thể đơn giòng đầu tiên đuợc chấp thuận cho dùng lâm sàng ở người vào năm 1986.

Tổ Chức Y tế Thế giới (World Health Organization =WHO) đã dùng hệ thống Tên Không sở hữu Quốc tế (International Nonproprietary Names =INN=generic names) trong năm 1950, với tên thuộc hệ thống INN đầu tiên được thông báo vào năm 1953. Ngữ căn -mab được đề nghị dùng cho kháng thể đơn dòng vào khoảng năm 1990, và hệ thống hiện tại với mục tiêu và nguồn phụ ngữ được phát triển giữa năm 1991-1993. Do sự hợp tác giữa WHO và Hội đồng Theo Nhận Tên của USA (United States Adopted Names Council =USAN), kháng thể USAN có cùng cơ cấu và được nhận như INN. Cho đến năm 2009, hơn 170 kháng thể đơn dòng được dùng tên theo hệ thống danh pháp này.

Tháng Mười năm 2008, WHO triệu tập một nhóm để xét lại cách đặt tên cho kháng thể đơn dòng. Buổi hội thảo đó dẫn đến sự thỏa thuận vào tháng 11năm 2009 cho một cách mới để đặt phụ ngữ. Mùa Xuân 2010, lần đầu tiên danh pháp kháng thể đơn dòng mới được bắt đầu áp dụng. Và cho đến  cuối năm 2011 thì có khoản hơn 250 tên kháng thể đơn dòng hiện diện.

Cách đặt tên

Danh pháp của kháng thể đơn dòng là lối đặt tên chung cho những thuốc chuyên biệt cho kháng thể đơn dòng. Một kháng thể là một protein tạo ra trong tế bào B (lympho B/B cells) và dùng bởi hệ thống miễn nhiễm của người hay những động vật có xương sống để nhận diện những chất lạ chuyên biệt như vi trùng hay siêu vi. Kháng thể đơn dòng là những kháng thể tạo ra trong những tế bào giống hệt nhau, thường là nhân tạo và vì thế cùng chia sẻ chung một mục tiêu nào đó. những kháng thể đơn dòng có tác dụng rộng rãi kể cả trong y khoa.

Tiếp vĩ ngữ -mab

Chữ -mab đuợc đặt phía đuôi như một tiếp vĩ ngữ (ghi chú: có bài viết gọi –mab là stem/gốc nhưng nếu coi như là một chữ gốc thì thường phải nằm ở giữa một chữ), và là một phần tên cho kháng thể đơn dòng và cả những mảnh của nó với điều kiện phải gồm có một lãnh vực có thể  thay đổi, thí dụ như mảnh kháng nguyên kết dính,  và mảnh di chuyển đơn chuỗi. Với phần kháng thể khác (thí dụ như vùng Fc) và bắt chước kháng thể thì lại phải dùng một cách đặt tên khác.

Phụ vào chữ -mab

Nói chung, theo cách đặt tên dược phẩm căn bản trên tiêu chuẩn của cả hai cơ quan INN của Tổ Chức Y tế Thế-giới và USAN thì  chữ phụ trước chữ -mab dùng để nhận diện các loại thuốc khác nhau tùy theo cơ cấu và chức năng.

Nguồn nguyên thủy của chữ phụ vào -mab



Nếu nhìn vào sơ đồ trên thì tên ở hàng trên, bên trái kháng thể đơn dòng chuột -o-, bên phải là kháng thể đơn dòng ghép/lai (chimeric) -xi-, phía dưới bên trái nhân loài hóa -zu-, giữa là ghép/nhân hóa -xizu-, và bên phải nhân loài -u-. Phần thuộc người có mầu nâu, phần không thuộc người (non-human) có mầu xanh trời. Lãnh vực thay đổi là những cái hộp trên đỉnh mỗi kháng thể; những vùng xác định bổ túc (complementarity determining regions= CDRs) trong những lãnh vực này tiêu biểu bởi những vòng xấp ba (trên bản in đen trắng thì sẽ thấy phần xanh mầu xám nhạt, phần nâu màu xám đen đậm).

Phụ ngữ đặt trước -mab để chỉ nguồn được dùng để chế tạo kháng thể. Theo như trên thì kháng thể đơn dòng từ chuột sẽ có phần chữ -o-mab (thường từ chuột nhắt nhà/house mouse/mus musculus) hay con vật nào đó không phải người. Cả hai cơ quan INN và USAN trước đây không đòi hỏi thuốc mang tên chuột (rats hay -a-) hamster (-e-) hay khỉ (-i-) nhưng hiện nay đã có một số mang những chữ -a-, -e-, -i-.

 

Những chữ viết tượng trưng cho loại:

 

người (human)                                    -u-

chuột nhắt (mouse)                 -o-

chuột cống (rat)                         -a-

chuột hamster                           -e-

khỉ (primate)                             -i-

thể ghép (chimeric)                 -xi-

nhân hóa (humanized)             -zu-

ghép và nhân hóa                    -xizu-

chuộtvà chuột nhắt ghép        -axo

 

Phần không nhân loài (non-human), ở trên đỉnh của kháng thể được coi như là những chất lạ cho hệ thống miễn nhiễm và có thể nhanh chóng bị làm biến mất ra khỏi cơ thể, gây nên những dị ứng. Để tránh chuyện này xẩy ra, một phần của kháng thể này có thể được thay thế với chuỗi amino acid của nhân loài hay kháng thể tinh khiết hóa của người có thể được mang vào. Nếu phần hằng định (constant region) được thay thế với thể khác thì chất kháng thể mới này được mang tên kháng thể lai hay kháng thể ghép (chimeric) và được đặt tên  phụ ngữ -xi-. Nếu phần thay đổi được mà được thay thế thích hợp cho người thì kháng thể sẽ mang tên kháng thể nhân hóa với phụ ngữ  -zu-. Phụ ngữ  -xizu- được dùng cho chất kháng thể một phần ghép, một phần nhân  hóa. Trừ -o- cho biết nguồn từ chuột nhắt, ba loại -xi-, -zu-, -xizu- không cho biết nguồn gốc giống lạ dùng để tạo sản phẩm. Vì thế thí dụ nếu nhìn vào tên cho kháng thể dù nhân hóa tạo ra từ chuột basiliximab thì chỉ thấy –ximab (không có ngữ căn -o- cho chuột trong chữ này).

 

Murine monoclonal antibodies: ktđd chuột (-omab), chữ -o- lấy từ nguyên âm trong chữ mouse.

Chimeric monoclonal antibodies: ktđd ghép (-ximab)

Humanized monoclonal antibodies: ktđd nhân hóa (-zumab)

Human monoclonal antibodies: ktđd nhân loài (-umab)

 

Phụ ngữ cho mục tiêu tấn công

Phụ ngữ trước nguồn của kháng thể đơn dòng thường ám chỉ mục tiêu/phần cơ thể trong y khoa. Những mục tiêu này là khối u bướu ác, những hệ thống của cơ thể như hệ thống tuần hoàn, hệ thống tim mạch, hay những mầm bệnh gây nhiễm trùng như vi trùng hay siêu vi. Nhưng mục tiêu tấn công không ám chỉ loại tác dụng nào của kháng thể, kể cả trị liệu, ngăn ngừa, phòng ngừa hay chẩn bệnh tất cả cũng không được phân biệt trong lối đặt tên này.

Cũng trong lối đặt tên ban đầu này, những phụ ngữ hầu hết đều gồm một phụ âm (consonant), một chủ/nguyên âm (vowel) và rồi một phụ âm nữa (consonant). Chữ cuối chỉ cơ quan mục tiêu thí dụ chữ r trong cir cho circulation (tuần hoàn) đôi khi có thể được rút ngắn lại thành ci cho dễ đọc và nếu theo sau là một phụ âm (consonant) (như -xi-), thí dụ : -ciximab. Một thí dụ khác  -li(m) cho hệ thống miễn nhiễm vì -lim đứng thay cho lymphocyte: limumab.

Trong lối đặt tên mới hơn được áp dụng từ năm 2009-2010, thì danh biểu gồm một phụ âm cộng thêm một nguyên âm, nguyên âm này có thể bỏ đi nếu nguồn phụ ngữ bắt đầu với một phụ âm. Thí dụ như  kháng thể nhân loài nhắm vào hệ thống miễn nhiễm nhận tên tận cùng với lumab thay vì theo lối cũ hơn phải gọi là limumab. Hệ thống danh biểu cũ hơn (trước 2009) dùng bẩy phụ ngữ căn khác nhau cho mục tiêu khối  u bướu (tumor), tùy thuộc vào từng loại khối u bướu. Vì nhiều kháng thể đang được nghiên cứu cho nhiều loại u bướu khác nhau, lối mới chỉ dùng -t(u)-.

Tiếp đầu ngữ

Tiếp đầu ngữ thường không có nghĩa chuyên biệt. Mỗi tiếp đầu ngữ tương trưng cho một sản phẩm sỡ hữu chủ của hãng bào chế nghiên cứu và phát minh ra, và nó cũng có thể làm cho tên dễ đọc hay dễ nhớ hơn. Thí dụ như adalimumab và golimumab, cả hai đều là chất ức chế TNF nhưng có cấu trúc hóa học khác nhau.

Thêm chữ

Chữ  riêng biệt thứ hai theo sau tên một kháng thể đơn dòng cho biết rằng một chất khác được kết nối thêm vào. Thí dụ, một kháng thể có thể được PEGy hóa (gắn vào phân tử của polyethylene glycol) để làm giảm sự thoái hóa bởi diếu tố và để làm giảm khả năng của một chất như kháng nguyên gây phản ứng miễn nhiễm: chất alacizumab pegol có một mảnh  pegylated F (ab’)2.

Thí dụ thuốc đặt tên lối mới

Olaratumab là một chất chống tân u sinh. Tên gồm phần olara-t-u-mab có nghĩa thuốc là một kháng thể đơn dòng nhân loài có tác động chống lại u bướu.

Benralizumab, một thuốc điều chế để trị hen suyễn, có từng phần benra-li-zu-mab cho biết đây là thuốc kháng thể được nhân hóa có tác động trên hệ thống miễn nhiễm.

Denosumab, một kháng thể đơn dòng nhân loài trị u bướu xương.

Ipilimumab, kháng thể đơn dòng nhân loài trị melanoma

Thí dụ thuốc đặt tên lối cũ trước năm 2009

Adalimumab là thuốc nhắm vào TNF alpha. Tên phân tích là ada-lim-u-mab: thuốc kháng thể đơn dòng nhân loài  nhắm vào hệ thống miễn nhiễm. Nếu đặt tên theo lối mới sau năm 2009, tên thuốc sẽ là adalumab.

Abciximab là tên thuốc dùng ngăn ngừa platelets khỏi kết tụ với nhau có tác dụng trên hệ thống tim mạch.Tên tách rời ra ab-ci-xi-mab cho thấy đây là một kháng thể đơn dòng lai/ghép. Tên đặt theo lối cũ hay lối mới cũng không có chi thay đổi. Thêm hai thí dụ thuốc nữa cũng không thay đổi trong cách dùng lối mới hay cũ. Đó là trastuzumab viết tách rời như tras-tu-zu-mab một kháng thể đơn dòng nhân loài hóa trị u bướu ác. Và alacizumab pegol, một PEGylated kháng thể đơn dòng nhân loài hóa nhắm vào hệ thống tuần hoàn.

Bevacizumab một thuốc kháng thể đơn dòng nhân loài hóa trị ung thư ruột già.

Trastuzumabmột kháng thể nhân loài hóa, trị ung thư vú.

Tocilizumab hay atlizumab, một thuốc ức chế miễn nhiễm, trị phong thấp (rheumatoid arthritis), là một kháng thể đơn dòng nhân loài hóa , phân tích tên ra thì là toci-li-zu-mab, at-li-zu-mab.

Còn Rozrolimumab là một kháng thể đa dòng (polyclonal antibody). Viết rời là rozro-lim-u-pab, cho thấy đây là một kháng thể đa dòng nhân loài tác động trên hệ thống miễn nhiễm, chữ đuôi pab ám chỉ kháng thể đa dòng (một tập hợp kháng thể đặc hiệu với những epitope khác nhau trên cùng một kháng nguyên).

Tưởng cũng nhắc lại, thuốc đầu tiên mang tên muromomab CD3 có từ năm 1986 đã không mang một quy thức nào thuộc hai hệ thống danh mục cũ hay mới mà chỉ là viết tắt của chữ murine monoclonal antibody targeting CD.

 

Mục tiêu tấn công                               phụ ngữ trước loại –mab

 

Bone (os)                                             -o-

Siêu vi (viral)                                       -vi (r)

Bacterial (vi trùng)                              -ba (c)

miễn nhiễm (lymphocyte)                   -li(m)

tuần hoàn (circularion/cardiovas)        -ci(r)

cơ khung/musculoskelelal                   -mu (l)

U khối ruột/colonic tumor                   -co(l)

U melanin                                            -me-(l)

U vú (mammary tumor)                      -ma (r)

U bướu nói chung (tumor)                  -tu (m)

Hệ thần kinh (nervous system)           -neu(r)

Interleukin                                           -ki(n)

 

Tên               Tên brand    Chữ đầu      Nguồn      Loại ktđd              Tác động

 

Adalimumab(Humira)    Ada  miễn nhiễm lim    nhân loài  -u-            trị bệnh viêm khớp/thấp       

Baxiliximab(Simulect)   Baxi  miễn nhiễm li        ghép         -xi-           trị reject thay cơ quan

Benralizumab                 Benra miễn nhiễm li     nhân hóa  -zu-          trị suyễn

Becacizumab (Avastin) Beca  tuần hoàn    ci      nhân hoá  -zu-           trị nhiều loại ung thư

Denosumab(Xgeva)       Den   xương        os      nhân loài   -u-           chống rỗng xương

Infliximab (Remicade)  Inf  miễn nhiễm   li         ghép          -xi-         tấn công hệ th. miễn nhiễm

Trastuzumab                 Tras  tumor           tu      nhân hóa   -zu-         trị u bướu nhiều loại

Ustekinumab (Stelara)  Uste interleukin    kin     nhân loài   -u-           trị vảy nến

 

Một số KTĐD cho khối u/bướu (tumors): -t(u[m])-

Nhân loài/human  -tumu-:  Adecatumumab; Belimumab; Cixutumumab; Olaratumab; Conatumumab; Daratumumab; Drozitumab; Figitumumab; Ganitumab; Necitumumab.

Chuột/mouse -tumo- : Bectumomab;  Blinatumomab; Detumomab; Minretumomab; Mitumomab. Trong -tumo-(chuột) có thuốc còn mang tên chuyên biệt hơn như

tumor buồng trứng (ovary)           -govo- :  Ababovomab; Igovomab; Oregovomab.           

tumor tuyến giáp trạng (prostate)  -pro- :   Capromab pendetide      

tumor ruột già                                          -colo-  :   Edrecolomab; Nacolomab tafenatox

Ghép/chimeric                               -tuxi- :    Amatuximab; Bavituximab; Ensituximab

Nhân hóa/humanized                    -tuzu- :  Afutuzumab; Alemtuzumab

Chuột/chuột nhắt ghép (rat/mouse hybrid) -tumaxo-:  Catumaxomab; Ertumaxomab

Kết luận

Tên thuốc thuộc kháng thể đơn dòng thường phức tạp và dễ lầm lẫn, nhưng nếu ta hiểu bằng cách tách rời tên thuốc ra từng phần để phân biệt rõ ràng nguồn gốc, loại, và mục tiêu tác dụng  thì tên thuốc sẽ trở nên ít phức tạp hơn.

Trịnh Nguyễn Đàm Giang

22 November 2011

 

Ghi Chú

 

Tài liệu từ trang Wikipedia:

http://en.wikipedia.org/wiki/Nomenclature_of_monoclonal_antibodies

 

Hội đồng Theo Nhận Tên của USA (USAN): United States Adopted Names Council

Kháng thể đơn dòng lai/ghép: Chimeric monoclonal antibody

Kháng thể đơn dòng nhân loài: Human monoclonal antibody

Kháng thể đơn dòng nhân hóa: Humanized monoclonal antibody

Tên Không sở hữu Quốc tế (INN): International Nonproprietary Names (generic names)

Tiếp vĩ ngữ: Suffix

Tiếp đầu ngữ: Prefix

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): World Health Organization.


No comments:

Post a Comment