Xuân trong Thơ Hán Thanh Hiên Thi Tập của Nguyễn Du.
Sóng Việt Đàm Giang biên soạn và dịch thơ
Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài thơ,
là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du. Tập thơ này Nguyễn Du làm trong thời
kỳ còn hàn vi và có thể phân chia ra làm ba giai đoạn.
1. Mười năm gió bụi (1786-1795) là
thời gian ông lẩn trốn ở Quỳnh Côi.
2. Dưới chân núi Hồng (1796-1802),
về ẩn ở quê nhà.
3. Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804).
Phần Thanh Hiên Thi Tập này diễn
dịch nghĩa 78 bài thơ của Nguyễn Du. Khác với Bắc Hành Tạp Lục với những bài
thơ viết về cảm nghĩ của Nguyễn Du với những cảnh trí, địa phận ông đi ngang
qua, về nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, phần Thanh Hiên nói về cá
nhân Nguyễn Du và những tình cảm của ông trong hoàn cảnh đương thời.
Như đã nói đến trong phần tiểu sử
của Nguyễn Du, những bài thơ trong tập thơ Hán Nguyễn Du được sắp thứ tự khác
nhau trong các ấn bản biên khảo khác nhau, riêng tập thơ dịch của Sóng Việt-Đàm
Giang dựa theo cách sắp xếp trong ấn bản năm 1978 của cụ Lê Thước và đồng nhóm.
Sóng Việt Đàm Giang
**
Vào thời gian Mười Năm Gió Bụi (1786-1795), Nguyễn Du làm nhiều bài thơ viết về mùa Xuân buồn bã, u ám có bài ám chỉ tuổi ông cỡ ba mươi, như thế có lẽ làm vào cuối thời kỳ Mười Năm Gió Bụi (1794-1795). Một số bài mang lên ở đây như: Quỳnh Hải Nguyên Tiêu (1/249), Xuân Nhật Ngẫu Hứng (2/249), Tự Thán I và II (3-4/249), Sơn Cư Mạn Hứng (7/249), U-Cư (9/249), Mạn Hứng (10/249), Xuân Dạ (12/249).
Thời gian Dưới Chân Núi Hồng (1795-1802) có bài Tạp Thi I (49/249).
Thời gian ra làm quan ở Bắc Hà (1802-1804) có ba bài Mộ Xuân Mạn Hứng (66/249), Thanh Minh Ngẫu Hứng (67/249), Xuân Tiếu Lữ Thứ (75/249). Ba bài này làm trong thời gian ông cỡ 40 tuổi (1804). Một số bài thơ khác viết về mùa Xuân không mang lên ở đây.
Sóng Việt Đàm Giang phỏng dịch
1/249. QUỲNH HẢI NGUYÊN
TIÊU
|
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn
thiên
Y y bất cải cựu thiền quyên
Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc
Vạn lý Quỳnh-châu thử dạ viên
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán (1)
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến (2)
Hải giác thiên thai tam thập niên (3)
Y y bất cải cựu thiền quyên
Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc
Vạn lý Quỳnh-châu thử dạ viên
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán (1)
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến (2)
Hải giác thiên thai tam thập niên (3)
1/249.
QUỲNH HẢI ĐÊM RẰM THÁNG GIÊNG
|
Trăng
tháng giêng nay trải khắp trời
Y
nguyên trăng đẹp vẫn không rời
Một
xuân hứng thú ai nhàn hưởng
Vạn
dặm Quỳnh châu tỏa sáng ngời
Núi
Lĩnh không nhà huynh đệ vắng
Hận
nhiều tóc bạc tháng ngày vơi
Cùng
đường thân khách trăng còn viếng
Khắp bể ba mươi năm mọi nơi
Chú
thích:
Quỳnh
Hải
chỉ xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, quê vợ nhà thơ.
(1)
Tình hình nhà Nguyễn Du vào lúc đó đã phân tán, anh em mỗi người một nơi.
(2)
Nhữ: chỉ mặt trăng.
(3)
Tam thập niên: lúc về Quỳnh Hải, Nguyễn Du mới chỉ ngoài 20 tuổi, bài này
có lẽ làm vào cuối thời gian ở Quỳnh Côi (1794-95).
2/249. XUÂN NHẬT NGẪU HỨNG
|
Hoạn khí kinh thời hộ bất khai
Thoan tuần hàn thử cố tương thôi
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt
Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?
Nam phố thương tâm khan lục thảo
Động hoàng sinh lý lậu hàn mai
Lâu ông bôn tẩu thôn tiền miếu
Đẩu tửu song cam túy bất hồi.
Thoan tuần hàn thử cố tương thôi
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt
Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai?
Nam phố thương tâm khan lục thảo
Động hoàng sinh lý lậu hàn mai
Lâu ông bôn tẩu thôn tiền miếu
Đẩu tửu song cam túy bất hồi.
2/249.
NGÀY XUÂN NGẪU HỨNG
|
Tiết
trời xấu quá cửa cài thôi
Hết
nóng lại sang hàn đến nơi
Đất
khách năm xưa vừa tiễn bạn
Nay
Xuân Quỳnh Hải lại sang rồi
Bến
nam đau xót nhìn thềm cỏ
Mai
lạnh chào xuân hé đón mời
Ông
lão lân khân bên miếu xóm
Say
cùng cam rượu mãi không rời
3/249. TỰ THÁN I (Nhị
Thủ)
Sinh vị thành danh thân dĩ suy
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy
Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn? (1)
Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri
Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng
Xuân thu hoàn nhữ lão tu mi
Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp (2)
Tất cánh phiêu lưu hà xứ qui?
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy
Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn? (1)
Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri
Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng
Xuân thu hoàn nhữ lão tu mi
Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp (2)
Tất cánh phiêu lưu hà xứ qui?
3/249.
THAN THÂN I
|
Danh phận chưa
xong đã rối bời
Lơ thơ tóc bạc
gió vờn chơi
Tại trời chân hạc
làm sao cắt?
Tính mệnh lông hồng
nhẹ bổng thôi
Cốt tướng gian
truân trời bắt nhận
Mày râu hoá bạc
đã lâu rồi
Gió tây thổi trốc
bồng lìa gốc
Chẳng biết về
đâu bước cứ trôi
Chú
thích:
(1)
Hạc hĩnh: ống chân chim hạc. Sách Trang Tử nói: Chân vịt nước ngắn,
nhưng không thể nối thêm, cũng như chân hạc dài, cũng không thể cắt bớt được. Ý
nói: Không thể làm trái tự nhiên, không thể vì hoàn cảnh mà thay đổi bản tính.
(2)
Tây phong: gió tây. Trong thơ Nguyễn Du có nhiều bài nói đến tây phong,
có lẽ muốn dùng chữ ấy để ám chỉ nhà Tây Sơn.
4/249. TỰ THÁN II
|
Tam thập hành canh lục xích thân
Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân
Bản nô văn tự năng tăng mệnh
Hà sự kiền khôn thác đố nhân?
Thư kiếm vô thành sinh kế xúc
Xuân thu đại tự bạch đầu tân
Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân!
Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân
Bản nô văn tự năng tăng mệnh
Hà sự kiền khôn thác đố nhân?
Thư kiếm vô thành sinh kế xúc
Xuân thu đại tự bạch đầu tân
Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân!
4/249. THAN THÂN II
|
Thân thì sáu thước tuổi ba mươi
Bởi trí thông minh hại tính trời.
Chữ nghĩa nào đâu ghen với mệnh,
Mà sao trời lại tị nhầm người?
Bại văn khiếm võ thêm nghèo khó
Lần lữa xuân thu tóc bạc đầy
Xuống tóc cầu mong vào rừng ở
Nằm nghe tùng gọi giữa tầng mây
Bởi trí thông minh hại tính trời.
Chữ nghĩa nào đâu ghen với mệnh,
Mà sao trời lại tị nhầm người?
Bại văn khiếm võ thêm nghèo khó
Lần lữa xuân thu tóc bạc đầy
Xuống tóc cầu mong vào rừng ở
Nằm nghe tùng gọi giữa tầng mây
7/249. SƠN CƯ MẠN HỨNG
|
Nam khứ Trường An thiên lý dư
Quần phong thâm xứ dã nhân cư
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ (1)
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ (2)
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt (3)
Bất kiến bình an nhất chỉ thư
Quần phong thâm xứ dã nhân cư
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ (1)
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ (2)
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt (3)
Bất kiến bình an nhất chỉ thư
7/249.
Ở NÚI CẢM HỨNG
|
Ngàn
dặm Trường An ở phương nam
Có người dân dã ngụ rừng xa
Cửa sài tịch mịch mây che kín
Có người dân dã ngụ rừng xa
Cửa sài tịch mịch mây che kín
Trúc
lạnh lơ thơ vườn thuốc xuân
Nhớ
quê dưới bóng trăng thơ thẩn
Cách ly nhỏ lệ nghe nhạn than
Quê cũ hai em tin vẫn bặt
Không thư chẳng biết có bình an
Cách ly nhỏ lệ nghe nhạn than
Quê cũ hai em tin vẫn bặt
Không thư chẳng biết có bình an
(1)
Dược phố: vườn thuốc. Câu này gợi ý cho thấy Nguyễn Du lúc về ở Thái
Bình, ít nhất là thời gian đầu, có trồng một vườn thuốc để sinh sống. Họ Nguyễn
Tiên Điền vốn có truyền thống về nghề thuốc. Trong nhà Nguyễn Nghiễm có tập
sách thuốc tập hợp nhiều bài thuốc bắc, thuốc nam do đời trước để lại, nhan đề
là Nam Dương tập yếu kinh nguyên (Nam Dương là biệt hiệu của cụ tổ đến ở Tiên
Điền lập cơ nghiệp ở đấy. Em Nguyễn Du tên Nguyễn Trứ (con khác mẹ), cũng làm
thuốc cho đến khi mất.
(2)
Thiềm ảnh: bóng con cóc, tức bóng trăng. Sách Hậu Hán thư chép: Huệ Nghệ
được thuốc tiên của Tây Vương Mẫu; Hằng Nga vợ Nghệ lấy trộm thuốc ấy, bay lên
trăng, hóa thành con cóc.
(3)
Cố hương: là Quỳnh Hải, ở đây chỉ huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, quê
vợ Nguyễn Du.
9/249. U Cư II
|
Thập tải phong trần khứ quốc xa,
Tiêu tiêu bạch phátký nhân gia.
Trường đồnhật mộ tân du thiểu,
Nhất thất xuânhàn cựu bệnh đa.
Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch,
Hoang trì thủy hạc xuất hà ma
Hành nhân mạc tụng Đăng Lâu phú
Cường bán xuân quang tại hải nha (nhai)
Tiêu tiêu bạch phátký nhân gia.
Trường đồnhật mộ tân du thiểu,
Nhất thất xuânhàn cựu bệnh đa.
Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch,
Hoang trì thủy hạc xuất hà ma
Hành nhân mạc tụng Đăng Lâu phú
Cường bán xuân quang tại hải nha (nhai)
9/249.
Ở NƠI U TỊCH II
|
Mười năm gió bụi đoạn quê hương
Khách trọ nhà người tóc bạc sương
Ngày xuống đường dài thưa bạn mới
Một nhà xuân lạnh bệnh thêm vương
Khách trọ nhà người tóc bạc sương
Ngày xuống đường dài thưa bạn mới
Một nhà xuân lạnh bệnh thêm vương
Tường xiêu, trăng sáng vài con mối
Nước cạn, ao hoang, ếch yễnh ương
Bài phú Đăng lâu đừng đọc nữa
Nửa đời lay lắt kẻ tha phương
Nước cạn, ao hoang, ếch yễnh ương
Bài phú Đăng lâu đừng đọc nữa
Nửa đời lay lắt kẻ tha phương
Chú thích:
Đăng lâu phú: là bài phú của
Vương Xán. Họ Vương tránh nạn đến nhờ Lưu Biểu đất Kinh-châu, lên lầu thành
Giang-lăng, nhớ nhà mà làm bài phú này.
(Khi làm bài thơ này, Nguyễn Du mới
cỡ tuổi ba mươi, nhưng ngày xưa tuổi này đã đuợc coi như nửa đời người vì tuổi
thọ thường chỉ cỡ sáu hay bẩy mươi).
10/249. MẠN HỨNG I
|
Bách niên thân thế ủy phong trần
Lữ thực giang tân hựu hải tân,
Cao hứng tửu vô hoàng các mộng
Hư danh vị phóng bạc đầu nhân
Tam xuân tích bệnh bần vô dược
Táp tải phù sinh hoạn hữu thân
Dao ức tha hương thiên lý ngoại
Trạch xa đoạn mã quý đông lân
Lữ thực giang tân hựu hải tân,
Cao hứng tửu vô hoàng các mộng
Hư danh vị phóng bạc đầu nhân
Tam xuân tích bệnh bần vô dược
Táp tải phù sinh hoạn hữu thân
Dao ức tha hương thiên lý ngoại
Trạch xa đoạn mã quý đông lân
10/249.
MẠN HỨNG I
|
Trăm
năm một thế dựa phong trần
Sông
biển hai miền mãi cậy thân
Mộng
ảo lầu vàng không thú nữa
Hư
danh dai dẳng bám bạc nhân
Xuân
nghèo ba tháng đau không thuốc
Tam
kỷ lênh đênh bận cái thân
Nhớ
đến quê hương ngàn dặm biệt
Ngượng
nhìn cỗ ngựa kẻ nhiều ân.
12/249.
XUÂN DẠ
|
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
Ky lữ đa niên đăng hạ lệ
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm.
Nam đài thôn ngoại Long Giang thủy (1)
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim)
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
Ky lữ đa niên đăng hạ lệ
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm.
Nam đài thôn ngoại Long Giang thủy (1)
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim)
12/249.
ĐÊM XUÂN
|
Đêm
đen nào thấy trời quang đâu
Song
mở âm u liễu sậm mầu
Sông
nước đi hoài mang bệnh hoạn
Áng
xuân ẩn gió ướt đêm thâu
Tha
hương ngó nến rơi giònglệ
Quê
cũ nhìn trăng gợi uẩn sầu
Lam
thủy thôn Nam Đài vẫn chảy
Một
dòng mới cũ đẩy cho mau.
Chú
thích:
1. Thiều quang : Thiều là
tốt đẹp. Thiều quang là quang cảnh đẹp, là cảnh sắc mùa xuân. Trong thơ
văn, thiều quang chỉ cho mùa xuân.
2. Ky lữ :
Ky (ki) là ăn nhờ ở đậu, ở nhờ, ở trọ. Lữ là ở trọ, đi xa phải ở
trọ. Ky lữ: người xa nhà phải ở nhờ nơi đất khách.
3. Long Giang
: Tức sông Lam, con sông quê nhà đã đi vào nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn
Du. Sông Lam có tên chữ là Thanh Long giang. Hai câu cuối bài thơ này, nhà thơ
nhớ quê hương mà tả, như nhìn thấy con sông ấy trong tâm tưởng.
49/249. TẠP THI I
49/249. TẠP THI I
Tráng
sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
Xuân lan thu cúc thành hư sự
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên
Thôn cư bất yếm tần cô tửu
Thượng hữu nang trung tam thập tiền
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
Xuân lan thu cúc thành hư sự
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên
Thôn cư bất yếm tần cô tửu
Thượng hữu nang trung tam thập tiền
49/249 THƠ TẠP I
Kẻ
sĩ bạc đầu ngửa mặt than
Lòng
hùng sinh kế đượm gian nan
Xuân
lan thu cúc tàn hy vọng
Hè
nóng đông hàn cướp tuổi xuân
Vui
mãi chó vàng kề núi Lĩnh
Trong
mây mắc bệnh cạnh sông Giang
Ở
thôn thích nhất tràn mua rượu
Rủng
rỉnh ba mươi tiền túi mang.
66/249. MỘ XUÂN MẠN
HỨNG
|
Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật
Phao trịch xuân quang thù khả liên
Phù thế công danh khan điểu quá
Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên
Phao trịch xuân quang thù khả liên
Phù thế công danh khan điểu quá
Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên
Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại
Thiên tuế trường ưu vị tử tiền
Phù lợi vinh danh chung nhất tán
Hà như cập tảo học thần tiên
Thiên tuế trường ưu vị tử tiền
Phù lợi vinh danh chung nhất tán
Hà như cập tảo học thần tiên
66/249.
CUỐI XUÂN CẢM HỨNG
|
Một
năm xuân thắm chín mươi ngày
Nỡ để xuân trôi thật tiếc thay
Danh lợi tựa như chim vút cánh
Trước sân tiết đổi tựa oanh bay
Nỡ để xuân trôi thật tiếc thay
Danh lợi tựa như chim vút cánh
Trước sân tiết đổi tựa oanh bay
Tấm
thân không thoát vòng vướng bận
Chuyện
sống ngàn năm cứ dắt dây
Danh hão sau cùng rồi cũng biến
Sao bằng thấm nghĩa đạo tiên đây
Danh hão sau cùng rồi cũng biến
Sao bằng thấm nghĩa đạo tiên đây
67/249.
THANH MINH NGẪU HỨNG
|
Đông phong trú dạ động giang thành
Nhân tự bi thê, thảo tư thanh
Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng
Thiên nhai vô tửu đối thanh minh
Thôn ca sơ học tang ma ngữ
Dã khốc thời văn chiến phạt thanh
Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn
Mạc giao mao thảo cận giai sinh
Nhân tự bi thê, thảo tư thanh
Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng
Thiên nhai vô tửu đối thanh minh
Thôn ca sơ học tang ma ngữ
Dã khốc thời văn chiến phạt thanh
Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn
Mạc giao mao thảo cận giai sinh
67/249.
TIẾT THANH MINH NGẪU HỨNG
|
Gió đông thổi suốt lướt qua thành
Người cứ sầu bi, cỏ cứ xanh
Thân dáng ngày xuân không trẻ nữa
Thanh minh chẳng rượu cũng thôi đành
Dân ca giúp hiểu thêm từ ngữ
Nức nở ngoài đồng vẳng chiến tranh
Day dứt khách xa buồn kể xiết
Cỏ tranh chớ để mọc gần quanh
Người cứ sầu bi, cỏ cứ xanh
Thân dáng ngày xuân không trẻ nữa
Thanh minh chẳng rượu cũng thôi đành
Dân ca giúp hiểu thêm từ ngữ
Nức nở ngoài đồng vẳng chiến tranh
Day dứt khách xa buồn kể xiết
Cỏ tranh chớ để mọc gần quanh
75/149. XUÂN TIÊU LỮ
THỨ
|
Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần
Ám lý thiên kinh vật hậu tân
Trì thảo vị lan thiên lý mộng (1)
Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân (2)
Ám lý thiên kinh vật hậu tân
Trì thảo vị lan thiên lý mộng (1)
Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân (2)
Anh hùng tâm sự hoang trì sính
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần
Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo
Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân (3)
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần
Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo
Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân (3)
75/149.
ĐÊM XUÂN LỮ THỨ
|
Đầu tóc bạc phơ với gió trần
Cảnh tình thấy đổi sợ muôn phần
Mộng kia “ao cỏ” xa ngàn dặm
Sân trước cây mai lại một xuân
Cảnh tình thấy đổi sợ muôn phần
Mộng kia “ao cỏ” xa ngàn dặm
Sân trước cây mai lại một xuân
Trí dũng một tâm đà nguội lạnh
Công danh thêm lụy khóc cười nhăn
Tang thương thân thể, xuân vẫn đẹp
Đứng dưới Đoàn Thành lệ sũng khăn
Công danh thêm lụy khóc cười nhăn
Tang thương thân thể, xuân vẫn đẹp
Đứng dưới Đoàn Thành lệ sũng khăn
Chú thích:
(1) Trì thảo: lấy tích ỏ câu
thơ: “Trì đường sinh xuân thảo” (bờ ao mọc có xanh). Đời Tấn, Tạ Huệ Liên, em
họ nhà thơ Tạ Linh Vận, mười tuổi đã biết làm thơ. Linh Vận thường khen và nói
khi ngồi với Huệ Liên, làm thơ thế nào cũng tìm được câu hay. Một hôm Linh Vận
ngồi ở bờ ao, làm thơ, không nghĩ ra câu nào, về nhà năm ngủ, chiêm bao thấy
Huệ Liên, bỗng làm ra được câu thơ trên lấy làm đắc ý. Với câu thơ này, Nguyễn
Du muốn nói mình ở xa nhưng vẫn không quên việc làm thơ xướng họa với anh em
của mình ở quê nhà.
(2) Đình mai dĩ hoán nhất niên
xuân: Nhà thơ lên Lạng Sơn đón sứ Thanh mùa đông năm Quí Hợi (1803), đầu
mùa xuân năm Giáp Tý (1804), sứ Thanh mới qua, do đó có câu thơ nói về mùa
xuân.
(3) Đoàn Thành: tức thành Lạng Sơn. Có
sách nói thành này có tên như vậy vì góc tây của thành hình vòng tròn.
Sóng Việt Đàm Giang biên soạn và dịch thơ
Xuân Ất Mùi 2015
Chị Đàm Giang chịu khó sưu tầm 12 bài thơ Xuân của Đại thi hào Nguyễn Du. Dù là thơ Xuân nhưng rất buồn, đúng là tâm trạng của người xa nhà, đau đáu về quê hương.
ReplyDeleteKính chúc chị sưu tầm thêm các tập thơ có giá trị, cũng như sáng tác đều đều.
PMT