Friday, October 30, 2020

Cay Hoa Ngoc Lan. SVDG

 

Cây Hoa Ngọc Lan

Nguồn gốc cây Ngọc lan

 


Cây Ngọc lan thuộc Chi Ngọc lan (Michelia) hay chi Giổi (Magnolia) thuộc họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi Ngọc lan (Michelia) có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á bao gồm cả miền nam Trung Quốc.

Họ Magnoliaceae hay họ Mộc lan là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm (thời đại khủng long).

Những hóa thạch của cây này đã được tìm thấy trong những phiến đá trên 100 triệu năm tuổi ở nhiều nơi như châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ. Người Trung Quốc đã trồng Magnolia từ thế kỷ thứ 7 gọi tên cây hoa là hoa "Yu-Lan" có nghĩa là ("Jade Orchid") Lan Ngọc. Người Nhật Bản trồng Magnolia Stellata từ hàng thế kỷ và gọi nó là "Shidekobushi". Còn Champaca lại là đại diện cho họ Mộc Lan này ở vùng Ấn Độ, Java và quần đảo Philippine. Bạch Ngọc lan thuộc chi Michelia

Lá, hoa và hình dáng của chi Michelia (Ngọc lan) tương tự như chi Magnolia (Mộc lan), nhưng hoa của chi Michelia nói chung mọc giữa các nách lá, hơn là mọc đơn ở đầu cành như của chi Magnolia.

Một số loài, bao gồm hoàng ngọc lan (M. champaca) và M. doltsopa được trồng để lấy hoa, cả để làm cây cảnh cũng như lấy hoa thuần túy. Hoa hoàng ngọc lan cũng được sử dụng để sản xuất tinh dầu trong công nghiệp sản xuất nước hoa. Một số loài đã được đưa vào các khu vực ngoài Đông Nam Á để trồng trong vườn hoặc trên đường, bao gồm M. figoM. doltsopa và M. Champaca.

                                                         Ngọc Lan

Hoàng Ngọc Lan 

Mặc dù loài hoa này được biết là hiện diện đã rất lâu và mỗi quốc gia có cây này đều đặt cho một tên khác, tên Magnolia chỉ được gọi từ đầu thế kỷ 18.

 Nguồn gốc của tên "Magnolia" ngày nay: Năm 1703, nhà thực vật Charles Plumier viết về một loài hoa có trên đảo Martinique, và ông đặt tên hoa này theo tên của một nhà thực vật Pháp thế kỷ 17 mang tên Pierre Magnol. (Pierre Magnol là một giáo sư, nhà thực vật học và y học, giám đốc vườn cảnh ở Montpellier của Pháp vào đầu thế kỷ 18, ông mất năm 1715). Cây này được người địa phương (đảo Martinique) gọi là Talauma, nhưng sau đó tên Magnolia được gắn với cây hoa này. Nhà thảo mộc William Sherard dùng tên này và sau đó Carolus Linnaeus dùng tên này viết trong cuốn sách Systema Naturae, in 1735. Sau khi nhiều loài khác thuộc gia đình hoa Magnolia được biết đến thì họ này được chia làm hai chi là chi Magnolia và chi Yulania.

Magnolias thường thấy ở Mỹ , và Yulania ở Á châu nói chung. Dù sau này qua phương pháp DNA, khoa học gia thấy có nhiều khác biệt trong những loài đã đuợc xếp vào họ Magnoliaceae nhưng một cách tổng quát, các giòng chính vẫn được chấp nhận.

Chi Magnolia: có nguồn gốc từ châu Á sau khi được đưa sang Mỹ, Magnolia do hạp thủy thổ được trồng rất nhiều ở miền Nam. Cả hai bang Louisiana và Mississippi đều chọn Magnolia làm biểu tượng hoa cho tiểu bang của mình.

                                                           Magnolia grandiflora
                                                     Cananga odorata

Ngoài loại Mộc lan/Magnolia hoa lớn trên, một hai loài cũng thấy thường ỡ Mỹ là:

Magnolia stellata trắng Nhật bổn

 *

Magnolia denudata lai giống màu hồng*



Và còn rất nhiều loại Mộc lan khác trồng rải rác khắp nơi.

Phần bài viết dưới này chỉ nói đến hoa Ngọc Lan (chi Michelia)

Cây hoa Ngọc Lan Việt Nam

Ngọc lan có hai giống hoa trắng (Mechelia alba D.C) cây cao to và giống hoa vàng, cũng gọi hoàng lan (Michelia Champaca L.) thuộc họ Ngọc lan (Magnoliaceae).

Bạch Ngọc lan là cây thân gỗ khá lớn, có khi cao tới 25-30 m, tuy nhiên người ta có thể chiết cành trồng vào chậu làm cây cảnh.Lá to màu lục tươi, có lá bắp dính thành ống bao lấy chồi. Mùa hoa vào tháng 5-8. Hoa mọc thành từng bông ở nách lá phía trên ngọn, có nhiều cánh dài, mảnh, mùi thơm dịu. Ngọc lan thân lá đều đẹp, hoa nhỏ, dùng để ướp chè và cất tinh dầu nước hoa đều được. Tuy thân gỗ to xong gỗ xốp, xấu. Cây rất chịu nắng, không kén đất, xong cần ẩm.

Tại Việt Nam, Ngọc lan được trồng nhiều ở đình chùa và công viên. Cây cũng được trồng nhiều để lấy hoa cúng, và làm trang sức do hương thơm như gài mái tóc, kẹp sách và cho vào ví, túi. Nhiều bộ phận của cây ngọc lan có tác dụng làm thuốc.

Hoàng Ngọc lan: tên thường gọi : Hoàng lan, cây công chúa, ngọc lan tây, lan tua, đại lăng, y lăng. Tên tiếng Anh : Ylang-ylang, perfume tree. Tên khoa học:  Cananga odorata. Sắp loại vào Magnoliales. Họ : Annonaceae

Hoàng Ngọc lan hay cây công chúa là một cây lan đại mộc (như ngọc lan hay mộc lan) trồng tự nhiên có thể đạt đến chiều cao 15 đến 25m, nhưng trồng làm cảnh hay lấy hoa, nó có thể được cắt tỉa để đạt chiều cao chỉ 1,8m. Vỏ cây màu xám trắng, lá song đính màu xanh đậm dài đến 20 cm chứa tinh dầu có mùi hăng, hoa mọc từ nách lá có mùi thơm mạnh. Hoa nở quanh năm ở các vùng khí hậu nhiệt đới. Hoa có thể cho quả chứa 10 đến 12 hạt như hạt mãng cầu. Hình thể hoa hết sức đặc biệt, hoa lớn nhưng cuống lại nhỏ nên luôn luôn rủ xuống phía mặt đất. Có hơn 6 cánh, khi còn non màu xanh nhạt, khi chín cánh màu vàng xoăn xuýt, đài hoa xòe rộng và nhọn như hình vương miện, trông như một cô gái tóc vàng đội vương miện nên được gọi bằng cái tên hết sức tượng hình là cây công chúa.
Được mô tả như một hỗn hợp mùi hương cực mạnh của lài và quế pha chút mùi cam chanh, hương hoàng lan có tác dụng định thần kinh, tạo cảm giác thư giãn và còn có một tính chất đặc biệt kích thích hưng phấn và tình ý. Tinh dầu hoa hoàng lan sản xuất nhiều nhất ở Comores (ANjouan) và Madagascar, bán rất đắt và được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp hương liệu và mỹ phẩm. (forum.caycanhvietnam.com)

Cho đến nay thì các loại sản phẩm dùng tinh dầu hoàng lan hay  tựa hương hoàng lan có rất nhiều. Những nước hoa nổi tiếng có hương hoàng lan có thể kể : " N° 5 " de Chanel (1921) ; " Arpège " de Lanvin (1927) ; " Chant d'Arômes " de Guerlain (1962) ; " Ylang et Vanille " de Guerlain (1999) ; " Air du Temps " de Nina Ricci (1948) ; " Poison " de Christian Dior (1985) ; " L'Instant " de Guerlain (2003).

Ylang-ylang (Cananga odorata (Baill.) Hook. et Thom., Anonacées.

Đây là một cây có mùi hương rất tuyệt. Nguyên gốc từ Phi Luật Tân và Bornea, cây đuợc nhiều nhà điều chế nước hoa của Pháp nhất là ông Jean Paul Guerlain cho trồng nhiều nhất ở Madagascar và vùng Aomores (Anjouan). Tại Hawai cũng trồng nhiều để điếu chế nước hoa. Cây mọc tự nhiên có thể cao 30 m, nhưng trong đồn điền, để tiện việc thu hái, cây đã được cắt xén cho có độ cao tối đa là 2 m. Hoa thương nở quanh năm nhưng nhiều nhất từ tháng 11 đến tháng 3. Hoa thường được hái trước 9 giờ sáng. Cây trồng 10 năm sản xuất từ 10 đến 15 kg hoa một năm. Chất dầu tinh cất từ hoa đuợc những nhà sáng tạo nước hoa chế biến với mùi thơm hoa nhài dịu ngọt, đượm mùi tựa gỗ hương, cam chanh và hoa hồng.

Tưởng cũng nhắc là có hai loại Hoàng ngọc lan là Hoàng ngọc lan Ylang Ylang Cananga odorata (họ Annonaceae), và Hoàng Ngọc lan Michelia champaca (họ Magnoliaceae).

(Tài liệu tổng hợp t internet).

Sóng Việt Đàm Giang.

 

No comments:

Post a Comment