Saturday, September 28, 2019

Thơ. Ngỡ Rồi Mình Già. SV Đàm Giang.





Ngỡ Rồi Mình Già...

Ngỡ rồi già mình sinh ra gắt gỏng
Sợ thời gian năm tháng tiếp tục lăn
Sợ gió mưa làm trí tâm hư hỏng
Ngại tóc mỏng thưa da mặt đầy nhăn

Rồi vỡ lẽ già thật không có tuổi
Chẳng kêu than cứ vui vẻ ca vang
Từng bước nhỏ nhưng càng thêm chín muội
Càng đẹp hơn trong giới hạn thời gian

Ngỡ rồi già là một trời mây xám
Chẳng thấy hoa xinh mang lại môi cười
Cùng lặng ngắt cây cành phai tươi thắm
Sách biếng ghi thư viết chẳng nên lời

Rồi vỡ lẽ tuổi đời bồi hiểu biết
Thong dong chơi không e sợ ngày mai
Xá gì đến tuổi đời trôi qua miết
Kệ mặc thời gian, cây viết lại trên tay

Ngỡ rồi già làm tâm hồn chai cứng
Nhìn sao trời mà chẳng cảm được tình
Còn đâu nữa trái tim nồng đầy hứng
Khi màn đêm buông xuống phủ quanh mình

Rồi vỡ lẽ tuổi già tuyệt vời quá
Nhìn hoa hồng nở thắm giữa thu vàng
Tận hưởng lộc hương cuộc đời phân phát
Năm tháng thu sao cho thật huy hoàng.

  June 29, 2014

Sóng Việt Đàm Giang phóng tác




"JE CROYAIS QUE VIEILLIR..." 
Marcelle Paponneau


Je croyais que vieillir me rendrait bien maussade,
Craignant chaque saison, les années, le tapage,
Le grand vent et la pluie, l'esprit qui se dégrade,
Les cheveux clairsemés, les rides du visage.

Et puis je m'apercois que vieillir n'a pas d'âge,
Qu' il ne faut point gémir, au contraire chanter.
Et même, à petits pas, les jours ont l'avantage
D'être beaux et trop courts quand ils sont limités.
Je croyais que vieillir c'était le ciel tous gris,
Le printemps sans les fleurs, les lèvres sans sourire,
Les fleurs sans chansons, les abres rabougris,
Un livre sans histoire, un crayon sans écrire.

Et puis je m'aperçois que vieilir rendre bien  sage,
Que je vis chaque instant sans penser à demain,
Que je ne compte plus les années de mon âge,
Peu importe le temps, le crayon à la main.

Je croyais que vieillir transformerait mon âme,
Que je ne saurais plus comptempler les étoiles 
Que  mon coeur endurci n'aurait plus cette flamme,
Qui transforme ma vie lorsque le ciel se voile.

Et puis je m'aperçois  que les plus belles roses
Fleurissent à l'automne et sous mes yeux ravis,
Je respire très fort ce doux parfum que j'ose
Garder pour embaumer l'automne de ma vie.

Monday, September 16, 2019

Thơ William B. Yeats và Pierre de Ronsard. Sóng Việt Đàm Giang.




Một Bài Thơ của William B. Yeats và của Pierre de Ronsard


                                            

                                                         
                                                           (photos from Internet)

Sóng Việt Đàm Giang

Bài thơ của William Butler Yeats: Một Mai Khi Em Không Còn Trẻ

William Butler Yeats sinh năm 1865 ở Ái Nhĩ Lan, thuộc vào nhóm dân Anglo-Irish (hay còn gọi là West Britons). Năm 1868 thì gia đình dọn về Luân đôn, sau đó trở về Dublin, Ái Nhĩ Lan một thời gian cho đến năm 1887 thì lại sang Luân đôn. Ông nhận được giải thưởng văn chương Nobel vào năm 1923. Thời gian ở Luân đôn ông tích cực tham gia phong trào "Phục hưng Ái Nhĩ Lan" với nguyện vọng phục hồi văn hóa xã hội Gaelic (Irish). Và cũng trong thời gian này ông quen biết Maud Gonne, một người phụ nữ lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Ái Nhĩ Lan. Năm 1904, ông thành công trong việc phối hợp thành lập Nhà hát Abbas. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Ái Nhĩ Lan (1919-1923) có ảnh hưởng rất lớn đến thơ ông. Thơ Yeats, với nhiều sắc thái dân tộc Ái nhĩ Lan, là một trộn lẫn giữa biểu tượng và lãng mạn vào thời điểm đó. Thơ Yeats cũng mang khuynh hướng đào sâu trí tuệ. Sự thấu triệt thơ ông cần có một trình độ hiểu biết về lịch sử, văn chương, và xã hội. Trái với một số thi hào đã nhận đuợc giải thưởng văn chương thì đã coi như đã đạt tuyệt đỉnh văn thơ, và sau đó sẽ không còn giữ được phong độ nữa. Trái lại sau khi nhận giải thưởng văn chương 1923 qua những tác phẩm trong kịch trường, thì thi nghiệp của Yeats lại càng tiến cao hơn nữa.

WHEN YOU ARE OLD
When you are old and gray and full of sleep,
And nodding by the fire, take down this book,
And slowly read, and dream of the soft look
Your eyes had once, and of their shadows deep;
How many loved your moments of glad grace,
And loved your beauty with love false and true,
But one man loved the pilgrim soul in you,
And loved the sorrows of your changing face;
And bending down beside the glowing bars.
Murmur, a little sadly, how Love fled,
And paced upon the mountains overhead
And hid his face amid a crowd of stars.
William Butler Yeats, 1892.

Trong bài thơ ngắn 12 hàng mà Yeats làm khi 26 tuổi, Yeats nghĩ về Tình yêu, Thời gian và khả năng tàn phá của Thời gian. Bài thơ viết ngày 21 tháng 10 năm 1891, và được gửi cho một người đàn bà mà Yeats đã yêu tha thiết, đó là người đẹp Maud Gonne, lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc Ái Nhĩ Lan. Vào thời đó Yeats đã cầu hôn Maud hai lần và đều bị nàng từ chối. Mặc dù bài thơ của Yeats viết bắt chước bài sonnet nổi tiếng của Pierre Ronsard gửi cho Hélène (1578) "Sonnet pour Hélène: Quand vous serez bien vieille,...", cùng mang ý niệm của Shakespeare nói về Thời gian và Tình yêu. Thời gian trong thi phẩm của Shakespeare nói về sự tàn phá của thời gian, còn trong thơ Yeats thì Thời gian được dung thứ hơn ,Yeats cảm thấy tự ái được ve vuốt (bởi vì Maud đã từ chối tình yêu của Yeats khi còn trẻ đẹp, thì nàng sẽ tìm thấy tình yêu ở Yeats với một tình yêu tôn linh nhiệt tâm).

Khi Ronsard tiên đoán lúc ông trở thành bóng ma lẩn quẩn quanh mộ mình thì người Ronsard yêu, nay là một bà già còm cõi sẽ phải hối hận đã gạt bỏ tình yêu của Ronsard. Trái lại Yeats thì nhẹ nhàng hơn, ông đổ lỗi cho sự thất bại trong tình yêu không phải là do người đàn bà mà do Tình yêu của chính Yeats, một người lúc đó đã rời bỏ quỹ đạo của loài người trần thế.
Trong câu đầu, nhà thơ kể cho Maud Gonne nghe rằng khi nàng về già, tóc bạc xám, nàng sẽ tối ngày buồn ngủ, ngồi cạnh lò sưởi để sưởi ấm thân thể lạnh cóng. Nhà thơ sẽ bảo nàng cầm tập thơ của ông lên và đọc chậm chạp, và nhớ những ngày nàng còn trẻ khi nàng có cái nhìn êm ái và có đôi mắt quầng đậm. Đoạn 2, nhà thơ bảo nàng hãy nhớ lại những người đã yêu nàng thật sự vì sắc đẹp thể xác hay cả những kẻ giả vờ. Nhưng ông bảo nàng rằng chỉ có ông là một người đã yêu cả tâm hồn nàng, một linh hồn được chuyển sinh từ thân thể này sang thân thể khác (pilgrim soul). Nhà thơ nói rằng chỉ có ông đã yêu nàng không chỉ vì sắc đẹp trẻ trung mà yêu cả sự phiền muộn và sắc đẹp tàn tạ của nàng. Trong đoạn ba, nhà thơ nói nhiều hơn nữa rằng khi về già nàng sẽ ngẫm nghĩ, gục đầu bên lò sưởi nhìn đà đựng củi sáng rực và thương tiếc khóc than nhà thơ mà lúc đó linh hồn đang lên cao dần vượt quá đỉnh núi và nhập vào với tinh tú trên trời, sau khi ông đã rời thân xác.
Bài thơ biểu lộ tình cảm thắm thiết mà Yeats dành cho Maud được coi như là một thông điệp toàn cầu, cấu trúc theo thể abba trong cả 3 đoạn. Chữ yêu được nhắc đến 6 lần.

Đây chỉ là một bài thơ trong ít nhất là 26 bài thơ mà Yeats đã viết cho Maud. Sau hai lần ngỏ lời cầu hôn Maud (năm 1891), là những lần kế tiếp 1899, 1900, 1901, 1903, nhưng ông luôn luôn bị Maud từ chối. Và cho đến năm 1916 khi Yeats 51 tuổi, ông lại ngỏ lời muốn lấy cô con gái 21 tuổi của Maud với người chồng đầu tiên, nhưng cũng không thành. Câu chuyện tình của Yeats với Maud có ảnh hưởng nhiều đến cuộc đời của ông từ khi còn trai trẻ đến tuổi trung niên, nhưng Yeats luôn luôn chứng tỏ tình yêu của Maud không hề làm suy giảm sư hăng say của ông trên con đường phụng sự văn hóa, chính trị, và xã hội.

Một mai khi em không còn trẻ

Một mai tóc bạc buồn hiu
Em nghiêng bên lửa nâng niu sách tình (1)
Nhẩn nha đọc nhớ chuyện mình
Một thời đôi mắt diễm huyền quầng sâu
Lúc thời bao kẻ ngất ngây
Yêu em thật giả tình say khó bàn
Riêng anh yêu cả linh hồn
Yêu em yêu cả gánh buồn dung nhan
Cúi đầu bên lửa sáng lan
Em buồn thầm khẽ thở than Tình rời
Bước dần lên núi cao vời
Thoát thân mình giữa vùng trời đầy sao.


Sóng Việt Đàm Giang phỏng dịch
20 July 2009.

Ghi chú.
(1) Sách tình: sách của Yeats, ông nói về tuyển tập thơ văn mà ông viết cho Maud, đối tượng của bài thơ.


Bài thơ Sonnet của Pierre de Ronsard gửi Hélène

Như đã viết ở trên,  William Butler Yeats đã viết bài When You Are Old phỏng theo Sonnet pour Hélène của Pierre de Ronsard. Điểm chung của cả hai bài thơ đều nói đến tình yêu, tuổi tác và sự hủy hoại của thời gian. Ngoài khác biệt về nhân sinh quan giữa hai bài, nội dung cũng có khác biệt khi Ronsard mang chính tên mình vào bài thơ, làm khi ông đã ngoài 50 tuổi và có vẻ như cay đắng, cùng tôn cao mình lên; còn WB Yeats, làm bài thơ khi mới 27 tuổi, thì bình thản hơn, khiêm nhường hơn, và cao cả hơn.
Bài thơ viết theo cấu trúc sonnet 14 hàng, 10 tiết âm mỗi hàng với tám câu đầu theo vận abba, abba, sáu câu sau ccd, ccd.
Bản Việt ngữ do Sóng Việt phỏng dịch với một bài 14 hàng 8 âm tiết mỗi hàng, và một bài viết theo thể lục bát.
Ghi chú. Ronsard (1524- 1585) làm thơ tình cảm cho rất nhiều phụ nữ. Thơ tình Ronsard đáng kể và nổi tiếng theo thứ tự thời gian là ông làm về một cô gái rất trẻ tên là Cassandre Salviati (1545-52), và sau đó là Marie Dupin (1555), và Hélène de Surgères (1578).

Sonnet pour Hélène
Quand vous serez bien vieille, au soir à la chandelle
Assise auprès du feu, dévidant et filant
Direz, chantant mes vers, en vous émerveillant
Ronsard me célébrait du temps que j'étais belle
Lors vous n'aurez servante ayant telle nouvelle
Déjà sous le labeur à demi sommeillant
Qui au bruit de Ronsard ne s'aille réveillant
Bénissant votre nom de louange immortelle
Je serais sous la terre, et phantôme sans os
Par les ombres myrrtheux je prendrais mon repos
Vous serez au foyer une vieille accroupie
Regrettant mon amour et votre fier dédain
Vivez, si m'en croyez, n'attendez à demain
Cueillez dès aujourd'hui les roses de la vie
Pierre de Ronsard (1524-1585)

Hélène Hỡi!
Một mai nàng già, chiều tối mon men,
Quay tơ cuộn chỉ nghe lửa reo bên
Đọc ca thơ tôi tấm lòng hào hứng
Ronsard ngày đó dốc lòng ngợi khen.
Còn đâu thấy cảnh, thiếu ngủ kẻ hầu,
Tỉnh cơn ngất ngây, giữa ngày mài miệt,
Nghe khi Ronsard buông lời nhiệt liệt,
Vinh danh nàng mãi đến mức thuộc lầu.
Nằm dưới đất, ta, hồn ma lẩn quất, (2)
Lặng lẽ nghỉ dưới vòm cây âm thế. (3)
Nàng già còm, nép mình bên lò sưởi,
Sẽ tiếc nuối gạt tình vì kiêu ngạo.
Hãy nghe tôi nên hưởng trọn ngày nay
Khi tuổi trẻ thanh xuân còn tươi thắm.


Sóng Việt Đàm Giang phóng tác
 21 July 2009.


Ghi chú: 
  tôi (1) và ta (2) ám chỉ nhà thơ Pierre de Ronsard.
 (3) Cây myrtle ở đây trong Thần thoại Cổ điển là loại cây ở thế giới bên kia (Âm phủ).

Hélène nàng hỡi!
Một mai già yếu chiều buông
Quay tơ ngồi sát nghe buồn lửa reo
Thơ tôi em đọc ca theo
Nhớ Ronsard tán đủ điều mỹ nhân
Còn đâu tỳ nữ hầu thân
Tỉnh cơn ngầy ngật, quên phần đa mang
Ronsard ngày đó tôn nàng
Gọi tên em mãi chẳng màng ngày đêm
Bóng ma lẩn quẩn mồ bên
Dưới cây âm thế, nghỉ thêm lặng tờ
Già còm bên lửa em mơ
Tiếc than tự trách ơ thờ vì kiêu
Nghe tôi, nên hưởng ngay yêu
Xuân thì đang độ mỹ miều đẹp tươi.

Sóng Việt Đàm Giang phóng tác

July 22 2009

Wednesday, September 11, 2019

Sept 11 Memorial NYC. Chaplain Mychal Judge. GNT




September 11 Memorial : Remembering Chaplain Mychal Fallon Judge.
 Tưởng nhớ Giáo sĩ  Mychal Judge.


Mychal Fallon Judge  (11 tháng 5 năm 1933 - 11 tháng 9 năm 2001), là một tu sĩ dòng
Phanxicô và linh mục Công giáo. Năm 1992, linh mục Judge được bổ nhiệm làm giáo sĩ
 cho Sở Cứu hỏa Thành phố New York. Là giáo sĩ, ông đã khuyến khích và cầu nguyện
 trong các vụ hỏa hoạn, giải cứu và bệnh viện, và khuyên lính cứu hỏa và gia đình họ,
 thường làm việc 16 giờ một ngày. "Toàn bộ chức vụ của ông là về tình yêu. Mychal yêu
 sở cứu hỏa và họ yêu ông ấy”.Ông ấy luôn mặc áo choàng giáo sĩ, và luôn luôn có một
 khuôn mặt tươi cười và một phong thái hòa nhã, đẹp.

Trong khi phục vụ trong chức vụ cứu nạn nhân, ông đã bị giết bởi các mảnh vỡ bay tại Trung tâm Thương mại Thế giới, trở thành trường hợp tử vong được xác nhận đầu tiên của cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Ông Mychal Judge cũng được biết tiếng trong thành phố với những quan tâm cho người vô gia cư, người đói, người nghiện rượu phục hồi, người bị AIDS, người bệnh, bị thương và đau buồn, người nhập cư, đồng tính luyến ái, và những người bị Giáo hội và xã hội xa lánh.
GNT



Tuong Nho Ngay11 Thang9 Nam2001.SVDG.

Kỷ niệm 18 năm về Thảm họa ngày 11 tháng 9 năm 2001.