Hà
Nội: Nhà Hát Cải Lương
Sóng
Việt Đàm Giang tóm lược
Hình SVĐG
Thăm Hà-Nội lần thứ hai sau ngày đất
nuớc chia đôi (1954) và gia đình di chuyển
vào Saigon, miền Nam Viêt Nam, người viết có nhiều thì giờ hơn thăm viếng và chụp
hình những di tích lịch sử của Hà -Nội
và 36 phố cổ Hà-Nội. Người hướng dẫn đưa chúng tôi đi vòng vòng thăm phố
cổ và tình cờ đưa chúng tôi tạt ngang hàng Đào, hàng Ngang, hàng Bạc v.v…và qua
Nhà Hát Cải Lương Hà-Nội.
Nhà hát Cải Lương Hà-Nội là một nhà hát rất nhỏ chỉ
có 250 ghế ngồi, và rất cũ. Nó cũng không phải là một di tích lịch sử quan trọng
mà chỉ đơn thuần là một nhân chứng văn hóa đã trải qua nhiều thời đại từ thời
Pháp thuộc đến giờ. Và vì nó vẫn là nơi có những buổi trình diễn cải lương từ
sau đệ nhất thế chiến nên nó vẫn còn được mọi người biết đến như rạp
Chuông Vàng hiện nay.
Theo tài liệu thu thập rải rác trên các trang nhà
khác nhau của internet thì vào thời Pháp thuộc
(cỡ năm 1883) thì hát chèo, rồi hát tuồng, rồi hát đình, ảnh hưởng ban đầu
của văn hóa cung đình thường được trình diễn ở cửa đền, cửa đình, dần dần được
chính phủ bảo hộ biến hóa thành văn nghệ rạp hát theo kiểu Tây phương,có sàn diễn,
có ghế ngồi. Rạp hát đầu tiên là rạp Hàng Cót xây năm 1887, chuyên dành cho các
gánh hát từ Tàu sang biểu diễn, và đôi khi có nhóm nhạc từ Pháp sang.
Ngoài nhiều rạp nhỏ không kể ở đây, rạp Quảng Lạc nằm tại số 8 đuờng Tạ Hiện xây năm 1900 chuyên cho diễn tuồng, nhưng đến năm 1935 đuợc chuyển thành rạp diễn cải lương cho các ban từ trong Nam ra. Riêng rạp Chuông vàng hiện tại thì khoảng năm 1920, sau đệ nhất thế chiến (1914-1918) chính phủ Pháp muốn khuyến khích dân chúng tham dự nhiều hơn về văn hóa để lãng quên việc nước và quốc sự nên cho xây thêm nhà hát Thăng Long tại số 72 Hàng Bạc (một bức vách của nhà hát nằm trên góc phố Tạ Hiện). Lúc đầu rạp Thăng Long trình diễn tuồng và chèo, cho đến năm 1925 thì chuyển sang cải lương, đổi tên rạp thành Cải Lương Hý Viện,, rồi thành rạp Tố Như (1941-1949) rồi rạp Văn Lang (1951-1954) do bà Kim Chung và ông Trần Viết Long làm chủ, rồi rạp Chuông Vàng từ 1954 cho đến hiện nay.
Ngoài nhiều rạp nhỏ không kể ở đây, rạp Quảng Lạc nằm tại số 8 đuờng Tạ Hiện xây năm 1900 chuyên cho diễn tuồng, nhưng đến năm 1935 đuợc chuyển thành rạp diễn cải lương cho các ban từ trong Nam ra. Riêng rạp Chuông vàng hiện tại thì khoảng năm 1920, sau đệ nhất thế chiến (1914-1918) chính phủ Pháp muốn khuyến khích dân chúng tham dự nhiều hơn về văn hóa để lãng quên việc nước và quốc sự nên cho xây thêm nhà hát Thăng Long tại số 72 Hàng Bạc (một bức vách của nhà hát nằm trên góc phố Tạ Hiện). Lúc đầu rạp Thăng Long trình diễn tuồng và chèo, cho đến năm 1925 thì chuyển sang cải lương, đổi tên rạp thành Cải Lương Hý Viện,, rồi thành rạp Tố Như (1941-1949) rồi rạp Văn Lang (1951-1954) do bà Kim Chung và ông Trần Viết Long làm chủ, rồi rạp Chuông Vàng từ 1954 cho đến hiện nay.
Sân khấu và ghế ngồi (hình từ trang Nhà Hát Cải Lương Hà Nội)
Trong hình đính kèm phía trên, chúng ta thấy có vài
người ngoại quốc hiên diện. Hiện nay chung quanh khu vực Tạ Hiện- Hàng Bạc có rất
nhiều dịch vụ liên quan đến du lịch cùng quán ăn lề đường san sát. Khu Tạ Hiện
đuợc mệnh danh là khu cho Tây ba lô (khách du lịch mang balô) và thức ăn khu
này rất bình dân.
Người viết đã từng được nghe bố mẹ nhắc đến đoàn Kim
Chung Tiếng Chuông Vàng Thủ đô từ ngày còn sống ở Hà-nội rồi di cư vào Nam. Đoàn
Kim Chung của ông bầu Long cũng di vào miền Nam vào năm 1954.
Cải lương đất Bắc từ đâu
mà ra?
Cải lương là bộ môn văn
nghệ xuất phát từ trong Nam và được xem như là thành hình sớm nhất từ năm
1915-1917. Cải lương Nam bộ trên đất Bắc được cho rằng là nhờ ông Sáu Súng
(Nguyễn Văn Súng) đã làm quen thuộc với khán giả đất Bắc vào khoảng năm 1919. Ông
Sáu Súng quê trong Nam, đi lính sang Pháp, bị thương trở về nước mưu sinh bằng
nghề chớp bóng lưu động từ Nam qua Trung rồi ông chuyển qua gánh xiệc . Gặp lúc
cải lương Nam bộ bắt đầu được ưa chuộng, ông Sáu cho mang cải lương vào gánh xiệc.
Được khán giả tán thưởng ông Sáu Súng dần dần lưu động gánh
xiệc cải luơng của ông từ tỉnh nhỏ lên tận Hà Nội và từ đó cải lương Nam bộ bắt đầu xâm nhập vào đời
sống người dân Hà thành. Sau gánh của ông Sáu Súng, nhiều gánh hát khác trong
Nam cũng ra Bắc trình diễn. Trong thời kỳ này (1923-1927), những gánh hát tài tử
đất Thăng Long cũng bắt đầu chơi cải lương vào nhưng vẫn còn ảnh hưởng của hát
chèo. Và bắt đầu từ những năm 1930 về sau thì cải lương Nam bộ đã thuờng xuyên
hiện diện ở Hà thành.
Nói tóm tắt thì cải lương Nam bộ trên đất Bắc thành
hình từ sự thoát thân của hát tuồng, hát chèo từ ngàn xưa đất Bắc, hát bội ở
Trung và Nam phần, hòa hợp với cải lương từ miền Nam vào khoảng năm 1917. Và vì
được chính phủ bảo hộ (Pháp) khuyến khích
phát triển cùng sự tiếp tay của một số người ưa chuộng âm nhạc cổ truyền và cải
lương miền Nam vào thời điểm đó mà Cải lương Hà nội còn hiện diện cho đến ngày
nay.
Sóng Việt Đàm Giang
Tài liệu tham khảo:
Nghệ Thuật Sân
Khấu Việt Nam.
Trần Văn Khải. NXB Xuân Thu
Hồi Ký 50 Năm Mê
Hát.
Vương Hồng Sển. NXB Phạm Quang Khai.
No comments:
Post a Comment