Trường Trưng Vương và
Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam, Đền Hùng Vương
Đàm Giang sưu tầm và biên soạn
Cổng trường
Trưng Vương trước 1975 (*)
Trường
Trưng Vương năm 2006
Lịch sử trường Trưng Vương.
Tài liệu không nhiều, trường Nữ Trung học Trưng Vương Sài Gòn, số 3A,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Q1, Saigon là
một trường trung học công lập dành cho nữ học sinh vào những năm trước 1975.
Trường Trưng Vương Sài Gòn là tiếp thân của ngôi
trường Trưng Vương Hà Nội. Sau Hiệp định Genève 1954, một số giáo sư, giáo
viên, và học sinh rời Hà Nội di cư vào nam, và từ đó trường Trưng Vương Saigon được
thiết lập. Ba năm đầu tiên vì chưa có trường riêng nên trường Trưng Vương
Saigon đã phải học nhờ trường nữ Trung học Gia Long nằm trên đuờng Legrand
de la Liraye (sau đổi tên thành đường Phan Thanh Giản), với những lớp học buổi chiều. Đến năm 1957, trường Trưng Vương rời về
số 3A đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận 1. Địa điểm này nguyên trước
là bệnh viện của Quân đội Pháp mang tên Quân y viện Coste,
gần Thảo cầm viên/Sở Thú Sài Gòn và trường trung học Võ Trường
Toản Sài Gòn. Trường có các lớp cấp trung học gồm 7 năm từ đệ Thất đến đệ Nhất.Từ
sau năm 1975 cho đến nay, khi chính thể Việt Nam Cộng Hòa chấm dứt
thì trường biến thành Trường Phổ thông Trưng Vương cấp III cho cả nam lẫn nữ
học sinh.
Trường Trưng Vương nằm trên con đường mang tên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vậy chúng mình có
nhớ ông Nguyễn Bỉnh Khiêm không?
Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) tên húy Nguyễn Văn
Đạt, tên hiệu Bạch Vân cư sĩ, là một nhà giáo đạo đức, có tài làm thơ văn trong
thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh), ông phò nhà Mạc, làm quan dưới triều
Mạc, ông lại có tài tiên tri, đuợc phong tước là Trình Quốc Công, dân chúng
quen gọi ông là ông Trạng Trình. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong
lịch sử Việt Nam và những sấm ký lưu truyền được cho là do ông viết đã được biết
như Sấm Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này phong ông làm thánh và suy tôn ông là
Thanh Sơn đạo sĩ hay Thanh Sơn Chơn nhơn. Trong bức họa vẽ Tam Thánh ký hòa ước
lưu thờ tại Toà Thánh Tây Ninh thì ông là một trong ba Thánh: Victor Hugo, Tôn
Dật Tiên, và Thanh Sơn đạo sĩ. Bản sao chép bức họa này hiện được trưng và thờ
tại tất cả các trung tâm Đạo Cao Đài.
Vườn Bách Thảo và Sở Thú Saigon
Vườn Bách Thảo và Sở Thú Saigon (Saigon Zoo and
Botanical Garden) tọa
lạc trên một vùng đất rộng hàng chục mẫu, mặt tiền là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm,
một cạnh là đường Hồng Thập Tự (Nguyễn thị Minh Khai bây giờ), và mặt sau chạy
dọc theo rạch Thị Nghè. Sở Thú thời Pháp thuộc gọi là Jardin Botanique (vườn
bách thảo), sang thời Cộng Hòa đổi ra tên Việt, gọi là Thảo Cầm Viên (cây cối và
chim muông). Tên Việt thông dụng là Sở thú, nôm na thì chỉ nói tới thú vật, mà
không nhắc đến cây cối, bông hoa. Tuy nhiên tên Sở Thú thông dụng nhất, vì phần
đông khách vào Sở Thú là để xem thú nhiều hơn là xem cây cối.
Sau khi vào qua cổng chính nằm trên đường
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy ngay trước mặt một con đường tráng nhựa rất rộng xe
hơi có thể chạy được hai chiều, phần chính giữa hai đường có những bồn hoa đủ
màu. Ngay đầu con đường nầy, bên tay phải là Đền Thờ Quốc Tổ (đền thờ vua Hùng),
bên trái là Viện Bảo Tàng Saigon. Con đường nầy chạy dài, thẳng tắp độ 200 mét
thì hết, đụng vào con đường chạy dọc theo rạch Thị Nghè. Con đường cắt ngang,
nếu ta rẽ về bên tay phải, sẽ dẫn ta vào khu trung tâm của Sở Thú, nơi có
chuồng khỉ, hầm gấu, chuồng chim, két, và, đặc biệt nhất, là một hồ sen rất
lớn, ở giữa có nhà thủy tạ hình bát giác có cầu gỗ từ trong bờ đưa ra. Rời khu
vực hồ sen ta sẽ đến khu chuồng cọp, sư tử và dã nhân. Sau đó bọc vòng trở lại
bờ sông thì có chuồng voi và nai. Từ bờ sông gần chuồng voi có một cây cầu lớn
dẫn qua khu Thị Nghè. Ngoài các loại
thú, Thảo Cầm Viên cũng có trồng nhiều kỳ hoa, cây lạ, và có cả một khu nhà
kiếng cho các loại phong lan.
Ông J.B. Louis Pierre tại chức giám đốc Vườn Bách
Thảo và Sở Thú Saigon từ năm 1865 đến năm 1877 thì trở về Pháp. Để tưởng nhớ và
ghi công ông, năm 1933, Hội đồng khoa học Pháp đã cho xây dựng một cột bia bằng
đá hoa cương có ghi lại một câu nói của ông, đặt phía sau khu vườn kiểng. Vào
năm 1994, nhân dịp kỷ niệm 130 năm thành lập Thảo Cầm Viên Sài Gòn, cột bia đã
được mang đặt ngay trên trục đường chính trong Thảo Cầm Viên, giữa Bảo tàng lịch
sử Việt Nam và Đền thờ Vua Hùng Vương. Lần này, cột bia có gắn thêm bên trên một
bức tượng bán thân bằng đá hoa cương màu hồng, tạc hình ông.
Cuối năm 1865, Vườn Bách Thảo đã được nới rộng đến
20 ha. Sang năm 1924, khuôn viên sáp nhập thêm bên bờ bắc rạch Thị Nghè 13 ha
nữa; một cây cầu đúc được bắc qua rạch để nối liền hai khu vực hoàn thành năm
1927. Và cũng trong năm đó, nhờ sự vận động của một viên chức Pháp tại Nhật,
chính phủ Nhật đã cung cấp cho Vườn Bách Thảo khoảng 900 giống cây lạ.
Viện Bảo
Tàng Lịch sử Việt Nam tại Saigon nằm ngay bên phía tay trái khi bước vào cổng
chính của Sở Thú. Thời Pháp thuộc Viện Bảo Tàng mang tên Pháp là Musée
Blanchard de la Brosse. Trong thời Cộng Hòa, cố học giả Vương Hồng Sển giữ chức
Giám Đốc viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam từ năm 1948 đến 1964.
Viện Bảo Tàng Lịch sử Việt Nam là một toà nhà
lớn, dài, xây trên một nền cao. Bên trong chia làm nhiều phòng, mỗi phòng dành
riêng cho một giai đoạn lịch sử hay một nền văn minh ở Việt Nam, chứa các cổ
vật của nước ta và các quốc gia trong vùng như Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp.
Đây cũng là nơi có phòng trưng bày các cổ vật của nền văn minh Óc Eo, một nền văn
hóa cổ ở Nam bộ. Óc Eo là tên một địa danh nằm phía nam tỉnh An Giang, thuộc đồng
bằng sông Cửu Long.
Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam
Đền thờ Vua Hùng
Sau năm 1954, đền được đổi tên là Đền Quốc Tổ Hùng Vương, và thờ thêm
một số nhân vật khác. Sau 1975, đền đổi tên là Đền Hùng Vương.Đền thờ Hùng Vương này có lối kiến trúc gần giống
như các đền ở Huế, với bộ mái chồng, thêm một hàng hiên phía trước, và ba tầng
mái cong. Các hình họa trang trí có hình rồng và phượng theo thể cung đình. Các
bậc đá lên xuống các cửa, hai bên đều có đôi rồng chầu.
Trong đền, trên các bao lơn xung quanh, có chạm
khắc các hình: hạc, lân, qui, phượng, tô đắp tinh xảo và sơn màu đỏ. Các lỗ
thông gió xung quanh cũng được chạm khắc. Đền được chống đỡ bằng 12 cây gỗ mật
màu đen bóng, đường kính khoảng 50 phân, tượng trưng cho thập nhị chi: tý, sửu,
dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ... Tất cả đều theo mang phong cách nghệ thuật thời nhà
Nguyễn. Ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, nơi đây đều có tổ chức lễ giỗ các
vua Hùng.
Bên phải
Đền Hùng Vương, có đặt một tượng voi đồng lớn với nét chạm khắc rất mỹ thuật,
tiêu biểu cho nền thủ công của vương quốc Thái Lan. Voi được đặt trên bệ cao.
Bốn mặt bệ, có gắn bốn biển đồng lớn hình chữ nhật. Cả bốn biển đều có khắc
dòng chữ lưu niệm giống như nhau, bằng bốn thứ tiếng: Việt, Thái, Anh, Pháp.
Bản tiếng Việt đại để ghi là vua Thái Lan : Đức hoàng đế Paramindr Maha
Prajadhipok, đã tặng để làm kỷ niệm trong việc Ngài ngự qua bên nước Indochine
lần đầu tại Saigon ngày 14 tháng 4, 1930.(Tượng voi ghi năm 1930, tuy
nhiên, mãi đến ngày 20 tháng 10, năm 1935, tượng voi mới được vận chuyển từ
Bangkok vào đến bến Nhà Rồng).
Tượng voi đền
Vua Hùng (*)
Tượng J.B. Louis Pierre (*)
Đàm
Giang
Ngày
21 tháng 1, năm 2014
(*): hình thu thập trên internet.Tài liệu thu thập từ Wikipedia
No comments:
Post a Comment