Một
Loài Hoa Mang Tên Sưa
Sóng
Việt Đàm Giang
Vào thời gian chuyển mùa vào tháng ba có nhiều
loại cây đang trơ trụi cành, chưa có một nụ hoa hay lá xanh nho nhỏ bỗng một
ngày toàn cây có hoa nở rộ hoặc trắng muốt hoặc hồng đỏ. Ở nhiều bang trên đất Mỹ, hoa redbud (họ
Fabaceae) trắng hay hồng đỏ bắt đầu nở từng chùm. Loài redbud này có thể mang nhiều tên Việt
khác nhau, đã được gọi là cây hoa hồng đào miền Đông (Cercis Canadensis), hồng
đào miền Tây (Cercis occidentalis), và một loại ở Âu châu và vùng tây nam Á châu mang tên là cây hoa Judas (Cercis
siliquastrum). Cây hoa redbud mang tên Judas đã được cho rằng vì đó là cây mà Judas
Iscariot đã treo cổ tự tử sau khi phản bội Chúa, nhưng cũng có thể đơn thuần là
cây này có rất nhiều ở bộ lạc Judea/Judah, Israel từ ngày xưa.
Riêng
ở Việt Nam, nhất là trên miền Bắc, có một loài cây có hoa trắng nho nhỏ nở rộ
trong những ngày đầu tháng ba, hoa nở trước khi ra lá. Đó là cây hoa Sưa.
Có
lẽ hoa Sưa tại miền Bắc và đặc biệt là tại Hà nội trước đây ít người chú ý
ngoài những người thích xem hoa, chụp hình và ngắm cảnh. Nhưng trong vòng gần mười năm trở lại, sau khi rất
nhiều cây sưa ở nhiều thành phố kể cà Hà Nội bị chặt trộm thì người ta mới chú
ý đến cây hoa sưa này nhiều hơn.
Cây
Sưa
Sưa là tên gọi chung của
ít nhất là hai loại sưa: sưa trắng và sưa có lõi đỏ. Loại sưa lõi đỏ là loại
sưa mà gỗ trong ruột cây có mầu nâu đỏ và được sắp loại vào loại câycó gỗ hiếm quý được dùng để đóng bàn ghế, làm đồ
trang sức và nhiều công dụng khác. Và loại này là loại mà những kẻ gian manh
tâm chặt. Với những kẻ tinh mắt thì biết được cây nào là cây sưa trắng hay sưa
có lõi đỏ, nhưng những kẻ không có kinh nghiệm thì đã có trường hợp cây chặt/cưa
đổ xuống thì không có lõi đỏ nên họ bỏ đi, vứt cây nằm ngổng ngang trên đường phố.
Đưới đây là hình ảnh một số cây sưa đỏ bị chặt/cưa trộm tại Hà nội và một vài tỉnh
Bắc phần, kẻ gian lấy mất phần thân chính có lõi đỏ, có cây bị thẻo, vạt cả mảng.
Bùi ngùi giận kẻ
ham tiền bạc
Lòng
tham vô đáy chặt rụng cây
Phân
biệt Sưa trắng và Sưa (lõi) đỏ
Vì tên Việt gọi cây
không đồng nhất nên khi nói đến cây hoa thì tốt nhất là kèm theo tên khoa học/tên
latin của cây. Những cây có tên khoa học là những cây có tên trong danh sách thực
vật của Vườn Thảo mộc Hoàng gia Anh, phần cuối của mỗi loài thường là tên người
đã tìm ra và đặt tên cho cây. Thí dụ Millettia
ichtyochtona Drake thì Drake là tên của Emmanuella Drake del Castillo
(1855-1904) nhà thảo mộc đã tả rõ và ghi lại trong sách Thảo mộc loài cây này.
Cây
sưa trắng.
Sưa trắng thuộc chi
Thàn mát (Millettia) họ Cánh bướm/Đậu (Papilionaceae/Fabaceae), có hoa trắng đẹp thường được gọi là cây thàn
mát. Thàn mát sưa trắng còn được gọi là cây duốc cá, thuốc cá với tên khoa học
là millettia ichtyochtona Drake (ichtyo
bắt nguồn từ chữ Hy lạp ikhthus/fish). Và vì chất rotenon, sapotoxin trong hạt của
cây có thể làm cá say thuốc ngộ độc nên cây này được mang tên cây duốc cá.
Ngoài ra cây còn mang nhiều tên khác như mác bát, hột mát, thãn mút (Theo sách Những Cây thuốc và Vị thuốc Việt Nam của
Đỗ Tất Lợi).
Cây thàn mát là một loài cây gỗ nhỏ, cao khoảng 10-15m . Thân cây có vỏ
nhẵn, mỏng, màu nâu nhạt. Cành nhánh dài, mềm mại, khi non có nhiều vảy nhỏ màu
trắng. Lá kép lông chim mọc đối, hình xoan đỉnh nhọn. Lá rụng hết vào mùa đông,
ra hoa vào mùa xuân, ở những cây non, cây vừa nảy lộc vừa đơm hoa, nhưng ở
những cây trưởng thành, sau khi ra hoa mới ra lá nên cho cây mang một màu trắng
toát lúc có hoa. Hoa mọc thành hoa tự ở nách lá, dày đặc, màu trắng, kiểu hoa
đậu. Quả dạng đậu, thuôn nhọn đầu, dẹt giống như con dao mã tấu lưỡi rộng;
trong quả chứa một hạt.
Vì
hoa trắng cây sưa đẹp nên đã được trồng để làm đẹp và tạo bóng mát ở Hà nội. Cây
có trồng nhiều ở miền Bắc, thích hợp nơi đất ẩm ven sông, vì hạt phát tán theo giòng
nước nên có thể tìm thấy ở ven bờ sông các vùng đồng bằng.
Sưa trắng thàn mát có thân
nhẵn nâu nhạt, lá kép lông chịm mọc đối, hoa trắng từng chùm, quả đơn, dạng đậu.
Sưa đỏ (Sưa Bắc
bộ, sưa Trắc thối)
Sưa
đỏ có nhiều tên khác nhau như sưa Bắc bộ, trắc thối, huê mộc vàng, tên khoa học
là Dalbergia tonkinensis Prain, thân gỗ, họ Đậu Fabaceae. Darlbergia
là chi Trắc (hay chi Sưa, chi Cẩm lai), tonkinensis là tên đặt theo vùng
(Bắc bộ), Prain (1857-1944) là tên nhà thảo mộc đã ghi chép lại cây hoa khi nhận
biết nó và ghi lại vào trong sách lần đầu tiên. Điểm đáng chú ý là cùng một chi
nhưng có ba tên gọi khác nhau tùy theo vùng. Cây trắc này mang tên là Trắc Nam
bộ hay Cẩm lai (Dalbergia
cochinchinensis Pierre) ở trong Nam, và Trắc Trung bộ (Dalbergia
annamensis) và Sưa đỏ hay Trắc Bắc bộ (Dalbergia tonkinensis Prain).
Hoa nhỏ giống cánh bướm họ Papilionaceae
(Papilionaceae/Fabaceae).
Sưa đỏ thân nâu
sù xì, lá kép lông chim mọc so le, hoa trắng chùm nhỏ, quả kết chùm
Là
cây gỗ cỡ trung bình vỏ màu xám nhạt, lá thường xanh có thể cao tới 10–15 m,
thân màu vàng nâu hay xám, nứt dọc. Lá dài 9–20 cm; số lá chét 5-9, lá kép lông chim mọc cách/so le với lá chét tận cùng thường là to nhất, hình trứng
hay hơi thuôn dài, nhẵn, có lông mịn lơ thơ khi non, nhanh chóng chuyển thành
không lông, gốc lá chét tròn, nhọn mũi.
Hoa
tự dạng chùy, mọc ở nách lá, khoảng 5–15 cm. Hoa trắng có đài hợp, thơm.
Quả dạng quả đậu hình trứng dẹt thuôn dài, dài 5–6 cm, rộng khoảng
1 cm và chứa 1-2 hạt dạng bầu dục. Quả thường cả chùm, khi chín không tự
nứt. Hoa ra tháng 2-4. Trái từ tháng 9 đến 11. Gỗ trắc cho mùi thơm thoảng như
hương trầm, Phần lõi/ruột gỗ trắc này màu đỏ hơi nâu, thớ chéo, mạch vòng, thuộc
loại gỗ nặng, bền và quý đẹp. Gỗ này dùng trong đóng đồ dùng trong nhà hay vật
dụng trang hoàng. Thời trước gỗ này đặc biệt dùng để đóng đồ nội thất trong
cung đình. Gỗ khi đốt có mùi khó ngửi nên đã được gọi là trắc thối.
Phân biệt sưa trắng (Thàn mát) với sưa lõi đỏ (Trắc thối)
*Sưa
trắng chi Thàn mát Millettia và Sưa đỏ chi Trắc Dalbergia. Cả hai đều thuộc họ
Cánh bướm/họ Đậu (Papilionaceae/Fabaceae).Sưa trắng mang tên thàn mát, mác bát,
hột mát, duốc cá, thãn mút. Tên khoa học
Millettia ichtyohtona Drake.
Sưa đỏ mang tên Trắc thối, trắc bắc bộ, huỳnh
đàn lõi đỏ, Trắc/cẩm lai Trung bộ hay Trắc/cẩm lai Nam bộ. Tên khoa học có thể
là Dalbergia tonkinensis Prain (trắc
Bắc bộ), Dalbergia annamensis (cẩm
lai Trung bộ), Dalbergia cochinchinensis Pierre (cẩm lai Nam bộ) hay Dalbergia boniana Gagnep.
*Thân
sưa trắng màu nâu nhạt, nhẵn. Thân sưa đỏ sần sùi, xù xì nứt nẻ
*Lá
sưa trắng mọc đối xứng. Lá sưa đỏ mọc so le
*Sưa
trắng cho hoa lớn hơn nếu so với hoa sưa đỏ hoa nhỏ hơn.
*Quả
sưa trắng đơn, to, đốt không có mùi. Quả sưa đỏ kết chùm, đốt có mùi khó ngửi.
Sưa Trắng (Thàn Mát)
Trắng muốt hoa
sưa đẹp tựa tranh
Tưng bừng nở rộ
khắp Hà thành
Đường xưa gốc nhỏ
chồi vừa nhú
Phố cũ cây già ngọn
chớm xanh
Lá đối quả to
thân nhẵn nhụi
Hoa chùm cánh nhỏ
cọng thanh thanh
Than thầm hoa đẹp
mau tàn thế
Chẳng khỏi nao
lòng phận mỏng manh
Đàm Giang
Sưa Đỏ (Trắc Thối)
Trắc thối huỳnh
đàn họ Đậu đây
Loài sưa Bắc bộ
chính tên này
Hoa chùm xúm xít
đầu cành hiện
Lá cách so le mởn
xanh bày
Khả ái già cao cùng
sát cánh
Khiêm nhường nhỏ
thấp cũng chen vai
Hà thành bát ngát
đầy hoa trắng
Có được dăm ngày
rụng hết ngay
Đàm
Giang
Sóng Việt Đàm Giang
01 March 2014
Ghi chú.
Bài viết Cây Sưa, Hoa
Sưa, Gỗ Sưa. Sóng Việt Đàm Giang tại link:
Tài liệu và hình ảnh thu
thập trên internet từ Wikipedia và nhiều trang nhà khác nhau.
1 comment:
Cây sưa có giá trị cao, làm đồ nội thất rất được ưa chuộng . Tuy nhiên, cần có bảo tồn bên cạnh việc khai thác.
……………………….
Quốc Duy
Bán máy bào gỗ đã qua sử dụng tốt nhất tại TPHCM
Post a Comment