Saturday, May 16, 2020

Chuyện Ngụ Ngôn Hang Plato. SN



Chuyện Ngụ Ngôn về Cái Hang động của Plato.
Song Nghiên chuyển dịch theo tài liệu Anh ngữ của Wikipedia.

Câu chuyện ngụ ngôn về hang động, hay Hang Plato, được đưa ra bởi nhà triết học Hy Lạp Plato trong tác phẩm Cộng hòa của ông (514a- 520a) để so sánh "tác động của giáo dục và sự thiếu sót đối với bản chất của con người". Chuyện được viết như một cuộc đối thoại giữa Glaucon, anh của Plato, và người cố vấn Socrates, được thuật lại bởi Socrates. Câu chuyện ngụ ngôn được trình bày theo sự tương tự của mặt trời (508b- 509c) và sự tương tự của dòng chia (509d - 511e). Cả hai đều  đặc biệt liên quan đến biện chứng (dialect) ở cuối Sách VII và VIII (531d- 534e).

Plato để Socrates mô tả một nhóm người đã bị xiềng xích vào tường của một hang động suốt cuộc đời của họ, đối mặt với một bức tường. Mọi người nhìn những cái bóng được chiếu trên tường từ những vật thể đi qua trước ngọn lửa phía sau họ, và đặt tên cho những cái bóng này. Bóng tối là thực tế của các tù nhân.
 
Socrates giải thích rằng khi một triết gia giống như một tù nhân được giải thoát khỏi hang động và hiểu rằng bóng tối trên tường hoàn toàn không phải là thực tế, vì người thoát khỏi tù này có thể cảm nhận được hình dạng thực của thực tế chứ không phải là thực tế được tạo ra từ các bóng nhìn thấy bởi các tù nhân. Các tù nhân của nơi này qua điều kiện hóa thậm chí không muốn rời khỏi nhà tù của họ, vì họ không biết cuộc sống nào tốt hơn. Nếu các tù nhân tìm được cách phá vỡ sự ràng buộc của họ vào một ngày, và khám phá ra rằng thực tế của họ không phải là những gì họ nghĩ đó là. Họ sẽ phát hiện ra mặt trời, mà Plato sử dụng như một sự tương tự cho ngọn lửa, mà con người không thể nhìn thấy phía sau. Giống như ngọn lửa chiếu ánh sáng vào các bức tường của hang động, tình trạng của con người mãi mãi bị ràng buộc với những ấn tượng nhận được thông qua các giác quan. Khi những cách giải thích này (hoặc theo trực giác) bị coi như là một sự xuyên tạc vô lý của thực tế, chúng ta không thể thoát khỏi sự ràng buộc của tình trạng con người của chúng ta.Tuy nhiên, nếu chúng ta thoát khỏi sự trói buộc đó một cách kỳ diệu, chúng ta sẽ tìm thấy một thế giới mà chúng ta không thể hiểu được, đối với một người chưa bao giờ nhìn thấy mặt trời thì không thể hiểu được mặt trời. Nói cách khác, chúng ta sẽ gặp một "cõi" khác, một nơi không thể hiểu được bởi vì về mặt lý thuyết, đó là nguồn gốc của một thực tại cao hơn so với cái mà chúng ta đã biết; đó là lãnh địa của Mẫu (Form) thuần túy, thực tế thuần túy.

Câu chuyện ngụ ngôn chứa nhiều hình thức tượng trưng được sử dụng để hướng dẫn người đọc về bản chất của nhận thức. Cái hang động đại diện cho thực tế vật lý bề ngoài. Nó cũng đại diện cho sự thiếu hiểu biết, vì những người trong hang sống chấp nhận những gì họ nhìn thấy theo mệnh lệnh tạo nên. Sự thiếu hiểu biết được thể hiện rõ hơn bởi bóng tối nhấn chìm, họ không thể biết được các vật thể thực sự tạo thành bóng tối, khiến họ tin rằng bóng tối là hình dạng thực sự của các vật thể. Xiềng xích ngăn tù nhân rời khỏi hang cho thấy rằng họ bị mắc kẹt trong sự thiếu hiểu biết, vì các chuỗi đang ngăn họ tìm hiểu sự thật. Những cái bóng chiếu trên tường của hang động đại diện cho sự thật hời hợt, đó là ảo ảnh mà các tù nhân nhìn thấy trong hang. Người tù được giải thoát đại diện cho những người hiểu rằng thế giới vật chất đó chỉ là một cái bóng của sự thật, và mặt trời đang làm sáng mắt người tù nhân đại diện cho sự thật cao hơn của ý tưởng. Ánh sáng tiếp tục đại diện cho trí tuệ (wisdom), vì ngay cả ánh sáng mờ nhạt vào được trong hang cũng đủ cho phép các tù nhân biết hình dạng.
Socrates cho rằng câu chuyện ngụ ngôn này có thể đi đôi với sự tương tự của mặt trời và sự tương tự của dòng phân chia.
Nhiều học giả khác nhau đã tranh luận về khả năng có mối liên hệ giữa công trình trong truyện ngụ ngôn và hang động, và công trình do Plato thực hiện khi xem xét sự tương đồng của đường phân chia và sự tương tự của mặt trời.

Dòng chia là một lý thuyết được trình bày trong tác phẩm Cộng hòa của Plato. Điều này được cho thấy qua một cuộc đối thoại đưa ra giữa Socrates và Glaucon. Trong đó họ khám phá khả năng của một thế giới hữu hình và thế giới hiểu được.
 Với thế giới hữu hình bao gồm các vật phẩm như bóng và phản xạ (hiển thị là AB) sau đó nâng lên chính vật phẩm (hiển thị là BC) trong khi thế giới hiểu được bao gồm lý luận toán học (hiển thị bằng CD) và hiểu biết triết học (được hiển thị bởi DE) .

 Nhiều người coi đây là một lời giải thích cho cách mà tù nhân trong câu chuyện ngụ ngôn về hang động đi qua hành trình. Đầu tiên trong từ có thể nhìn thấy với bóng tối như những cái trên tường. Socrates cho rằng bóng tối là thực tế cho các tù nhân vì họ chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ điều gì khác; họ không nhận ra rằng những gì họ nhìn thấy là bóng của các vật thể trước ngọn lửa, ít hơn là những vật thể này được lấy cảm hứng từ những thứ có thật bên ngoài hang động mà họ không nhìn thấy sau đó nhận ra vật lý bằng sự hiểu biết về các khái niệm chẳng hạn như cây được tách ra khỏi bóng của nó. Nó bước vào thế giới hiểu đuợc khi tù nhân nhìn vào mặt trời. Dẫn đến sự tương tự của mặt trời.

]


Đường phân chia - (AC) thường được coi là đại diện cho thế giới hữu hình và (CE) là đại diện cho thế giới hiểu được.
Sự tương tự của mặt trời đề cập đến khoảnh khắc trong cuốn sách VI (book VI) trong đó Socrates sau khi được Glaucon thúc giục để xác định mục đích tốt đẹp thay vào đó, một sự tương tự thông qua một "đứa trẻ của sự tốt lành". Socrates tiết lộ "đứa trẻ của sự tốt lành" này là mặt trời, giả định  rằng giống như mặt trời chiếu sáng, ban cho người khả năng nhìn và được nhìn thấy bằng mắt qua ánh sáng để cho ý tưởng về sự tốt lành chiếu sáng sự hiểu biết với sự thật. Từ đó dẫn đến một số học giả tin rằng điều này đã tạo ra một kết nối của mặt trời và thế giới hiểu được trong lãnh vực của câu chuyện ngụ ngôn về hang động.


Knowledge in Science, Kiến thức khoa học
 Knowledge, kiến thức thuộc linh
 Learning, kiến thức qua lý luận học
Technical knowledge, kiến thức qua kỹ thuật
 Background knowledge, kiến thức qua kinh nghiệm quá khứ
 Information knowledge, kiến thức lĩnh hội qua tin tức học hỏi
Scope knowledge, kiến thức qua quy mô thông tin
Wisdom knowledge,  kiến thức khôn ngoan đã đạt qua kinh nghiệm: cha truyền kiến thức cho con.
General knowledge, Kiến thức chung
Knowledge on line, encyclopedia. Kiến thức bách khoa


No comments: