Tuesday, April 1, 2014

Du thuyền Allure of the Seas. Sóng ViệtĐàm Giang (II)

Du Lịch.
Du thuyền Allure of the Seas



Phần II
Allure of the Seas

Tháng Năm 2011, người viết bước chân lên du thuyền Allure of the Seas, tầu được mệnh danh song sanh với Oasis. Hầu hết những ưu điểm của Oasis đều hiện diện trên Allure.
Trừ một vài khác biệt cấu trúc nho nhỏ, vài thay đổi trong nhà hàng tiệm ăn, tiệm bán nữ trang, tiệm tranh vẽ, v.v…, sự khác biệt lớn nhất phải kể đến những shows trên hai tầu. Một số khác biệt được mang lên ở đây.

Chiếc xe hơi trưng tại lầu Promenade:

 
Oasis. Car: Rolls-Royce/Bentley                  
  Allure: Mercedes

Show trên  đá lạnh(Ice shows) thì Oasis có Frozen in Time, Allure có IceGames:

Oasis: Frozen in Time    

                                Allure: IceGames
        
             AquaTheater:  shows trên nước.
Oasis: Oasis of Dreams

           Allure: OceanAria
Broadway shows thì Oasis có Hairspray, Allure có Chicago
Oasis Hairspray
Allure Chicago

 Shows đặc biệt thì Oasis có Come Fly With Me, Allure có Blue Planet.
       Oasis: Come Fly With Me
 Allure: Blue Planet
  Vài điểm chính của Oasis và Allure.

Royal Caribbean khánh thành tầu Oasis vào tháng 12 năm 2009, tầu Allure of the Seas  vào tháng 12 năm 2010.
Oasis có bẩy Godmothers là bẩy phụ nữ có cá tính đặc biệt đạt nhiều thành quả, có tinh thần chia xẻ, và là mẫu mực cho mọi người: Gloria Estefan, Michelle Kwan,Jane Seymore, Dara Torres, Keshia Knight Pulliam, Shawn Johnson, Daisy Fuentes.
Allure chỉ có một Godmother duy nhất : đó là Công chúa Fiona của Dream Works. Fiona cũng là một trong những nhân vật  trong đề tài Dream Works của tầu Allure. Những công trình của Dream Works trên tầu Allure gồm phim ảnh 3D, Ice shows, Aqua shows.
Allure có cửa hàng tranh Britto và tranh hình ảnh của Britto được chiếu đầy trong lầu phòng ăn.
Allure cũng đặc biệt có iPod dock trong mỗi phòng ngủ, rất tiện lợi cho xử dụng từ sấy tóc cho đến charge phone, hay dùng computer.
Allure có 5 cm dài hơn Oasis.
Boardwalk trên lầu 6 của Allure có Boardwalk Dog House với 5 loại sausages và đủ loại hot dog toppings tại vị trí tiệm Donut của Oasis. Tiệm Donut của Allure nằm bên cạnh tiệm Ice cream.
Allure có nhà hành Rita’s Cantina bán đồ ăn Mexico với giá $7.95 một người. Tiệm này thay thế  Oasis’ Seafood Shack trên Boardwalk của Oasis.
Allure cũng có nhà hàng mới  Brazilian steakhouse Samba Grill

Allure cũng có thêm StarBuck Coffee, Guess store, Guest Kiosks, 3D movies.
Allure có Shrek, Fiona, Po (Kung Fu Panda) và rất nhiều nhân vật khác nữa của Dream Works. Họ có mặt khắp nơi trên tầu lúc trên Promenade, lúc phòng ăn sáng, ăn trưa v.v…
Ice Shows: Ice Games (Monopoly), How to Train Your Dragon, và Madagascar là ba shows trên ices của Allure so với Oasis of Dreams của Oasis. Theme của Oasis of Dreams hay hơn Ice Games  của Allure. Màn ice show biểu diễn múa diều của cặp nghệ sĩ người Nga trong Ice show của Allure cũng hay như màn vẽ trên cát của Oasis.
3-D movies: How to Train Your Dragon, Clast of Titans, Megamind, Shrekcủa Allure là những movie 3 D chiếu trong Amber Theater có âm thanh và hình ảnh rất đẹp. Hiện nay Oasis vẫn chưa có nhưng  nghe nói trong tương lai sẽ có.
Về Aquashow thì Allure có chương trình Ocean Aria với trang phục lạ bắt mắt và màn nhào lộn cũng đặc sắc hơn Oasis, màn hai lực sĩ biểu diễn chống tay, chống chân chồng lên nhau giữa cảnh bồn nước phun đẹp  và rất hay. Aqua Theater của Aqua Show là hồ biểu diễn có độ sâu 18 ft với những màn nhẩy từ trên cao xuống hồ, nhào lộn trampoline, biểu diễn acrobat rất hồi hộp và bắt mắt. 
Aquashow vào hai ngày chót thì Allure có Let You Entertain Me với hầu hết tất cả diễn viên của các shows tụ lại cũng rất vui và hay. Oasis thì có ‘Splish Splash’.
Headliner Showtime thì Oasis có ba chương trình ca hát với nhiều nghệ sĩ chơi nhạc cổ truyền, chơi đàn violin, ảo thuật, chơi trò thảy bóng và dụng cụ rất hay. Allure chỉ có một show nói bụng duy nhất của ventriloquist/comedian Ronn Lucas.

Về Broadway shows
Allure: Chicago

Chicago là một ca nhạc kịch phẩm múa hát xẩy ra vào thời kỳ cấm Rượu. Đây là một cốt chuyện châm biếm về tham nhũng trong guồng máy hành chánh của công lý tội phạm (criminal justice) và khái niệm về tội phạm nổi danh.. Vở kịch nhạc này viết phỏng theo một kịch bản cùng tên của phóng viên Maurine Dallas Watkins viết năm 1926, dựa theo những nhân vật và những tội phạm có thật mà người phóng viên này đã có viết tường thuật vào thời đó.
Theo tài liệu thì vở Chicago đã được viết lại vào năm 1996 đã được trình diễn lâu dài cỡ hơn 5,900 lần nếu tính đến mùa Xuân 2011. Ca kịch Chicago cũng đã được quay thành film vào năm 2002 do Rob Marshall đạo diễn, Catherine Zeta-Jones, Renee Zellweger, Richard Gere đóng và film được Academy Award.
Cốt chuyện như sau.
Velma Kelly: cô vũ nữ chuyên nhảy trong kịch ca vũ loại vaudeville (một loại múa hát có tính cách châm biếm thịnh hành vào thời 1880-1930s tại Hoa Kỳ và Canada, gồm nhiều màn múa hát nối tiếp nhau diễn tả tiến diễn của câu chuyện ca múa) đang bị xử án vì tội giết 2 người (người chồng ngoại tình với cô em gái). Luật sư Billy Flynn bào chữa cho Velma, và chính Velma phải dành dật với Roxie Hart để được Billy nhận lời.
Roxie Hart: người đàn bà muốn được làm vũ nữ  vaudeville và là kẻ đã giết bồ cũ và đang bị giam tù.
Billy Flynn: Luật sư của cả hai Velma và Roxie, người có tài mua chuộc, gây cảm tình của công chúng với tội phạm. Tiền phí tổn Billy lấy rất đắt ($5,000 vào thời 1920s)
Amos Hart: người chồng hiền lành và một bóng mờ bên cạnh Roxie Hart.
Matron “Mama” Morton. Cai tù tại trại tù quận Cook thường nhận “quà” của tội phạm để ban ân sủng trong tù cho tôi phạm.
Mary Sunshine: nhà báo theo dõi vụ xử Roxie và Velma.

Kịch gồm hai Acts. Phần đầu trình diễn cảnh Velma giết chết cả hai khi thấy chồng đang ngủ trên giường với em của Velma. Cùng lúc đó cô gái ca hát Roxie cũng vừa giết người tình, một khách hàng thường xuyên ở nightclub Roxie làm việc, ở ngay tại nhà Roxie. Nên sau đó Roxie bị tống giam vào khám Quận Cook, nơi có giam Velma và nhiều tôi phạm đàn bà khác (màn trình diễn Cell Block Tango). Nguyên block tù này dưới sự cai quản của Mama Morton, một người coi tù thích ăn tiền của tội phạm để cho họ hưởng những ân sủng dễ dãi. Chính Mama Morton đã giúp làm Velma  trở thành kẻ giết người nổi tiếng trong tuần, và đồng thời Mama Morton đóng vai quản lý cho việc dàn xếp để Velma trở lại sàn nhảy.
Màn trình diễn  tiếp cho thấy Roxie cố thuyết phục chồng kiếm tiền để mướn Billy làm Luật sư bào chữa. Billy trình diễn màn ca hát với vũ nữ múa quạt (All I Care About Is Love). Rồi Billy nhận lời Roxie, tìm kế để Roxie được nổi tiếng trong buổi xử. Roxie trở nên nổi tiếng, và Velma bị quên dần. Velma bị nhụt tinh thần nên đề nghị với Roxie đề cả hai làm một màn nhảy chung với nhau nhưng Roxie từ chối. Rồi chính Roxie cũng bị quên lãng nên Roxie giả bộ nói có thai để được báo chí nói đến .

Qua Act 2. Phần hai là một loạt những biến đổi giữa Velma và Roxie, rồi vụ tòa xử, Roxie đuợc trắng án, Billy xong việc lấy tiền bỏ đi, báo chí săn tin mới nóng sốt hơn và Roxie bị bỏ rơi. Chồng Amos cũng bỏ Roxie sau khi nghe Roxie nói chẳng có mang bầu chi hết. Còn lại một mình, Roxie đành quyết định hợp cùng Velma để nhẩy múa trong màn chót (Hot Honey Rack).

Ca kịch Chicago trên Allure dài 90 phút, và gần như đầy đủ so với kịch bản Chicago Broadway trình diễn bình thường. Từ cách trình diễn đến trang phục cũng tương tự.
Chicago được du khách rất hâm mộ nếu là những người thích hay đã từng xem Broadway shows, tuy nhiên có một số du khách không thích vì bản ca kịch đượm nét u tối, khôi hài đen, lời có đôi khi sống sượng (chương trình đề rõ show dành cho người lớn).
Thích hay không thích tùy cá nhân nhưng phải công bình mà nói thì Chicago rất đáng xem, diễn viên múa hát có tài, và trình diễn hết mình. Thật đúng là một Broadway show nặng ký trên một chuyến du thuyền thoải mái.
Nếu so sánh với Hair Spray bên Oasis thì lại càng khó mà đặt lên cán cân vì Hair Spray thì tươi sáng, hài hoà, vui nhộn, và nhẹ nhàng hơn.
Những diễn viên trong Chicago cũng là những diễn viên trong show The Blue Planet, một show rất hay, rất công phu tập luyện với những màn ca hát, nhào lộn trên không, trên trampoline, màn cây  đâm chồi nẩy lá cùng với màn nước xanh dưới biển sâu, một theme rất blue planet, rất tuyệt vời!
Nhạc của Blue Planet do the Beatles viết cũng rất hay, nữ nghệ sĩ chính mặc áo vàng (tượng trưng cho đất đai của trái đất?) trong màn đầu và mặc áo xanh (tượng trưng cho biển cả?) trong màn hợp ca chót, và cũng là nghệ sĩ ca hát đóng vai Velma trong Chicago là một nghệ sĩ rất giỏi đáng ca ngợi.
Và sau chót có một nhân vật mà cả hai tầu Oasis và Allure đều có mặt trong dịp người viết đi hai du thuyền này (Oasis: May 1-May 8, 2010; Allure: May 15-May 22, 2011), đó là Cruise Director Ken Rush. Ken không những là một Cruise Director  giỏi mà còn là một nghệ sĩ có tài mà du khách thấy trong các chương trình Ken tham gia, và đặc biệt trong chương trình disco night với Ken mặc đồ trắng múa hát trên lầu Promenade.
Trước khi kết thúc tưởng cũng nên nói qua về thức ăn trên tàu Allure. Thức ăn lúc nào cũng có, hàng Cà phê và Pizza ở lầu Promenade lúc nào cũng nóng, cũng mới, cũng ngon. Lầu 16, lầu 15, lầu 6, Boardwalk, lầu 5, v.v… nơi nào cũng có thức ăn cả.
Ăn chiều tối thì ngoài lầu 16 có Windjammer buffet, lầu 3 và 4 là phòng ăn chỉ định chỗ ngồi. Lầu 5 là phòng ăn My Time Dining. Menu thức ăn thay đổi và đầu bếp nấu rất ngon. Ngày thứ Sáu như thông lệ có tôm hùm. Tầu rất chiều khách, người viết được nghe cô bồi bàn tên Rudy kể là cô ta phải serve một cặp vợ chồng 19 con lobsters lớn, người chồng ăn 10 con, người vợ 9 con lobsters!

Tóm lại
Nếu phải so sánh hai tầu Oasis và Allure với nhau thì khó mà quyết định rằng shows của Oasis hay Allure hay hơn, hoặc thức ăn trên tầu Allure hay Oasis ngon hơn, lạ hơn. Số shows trên tầu cũng có thể thay đổi với những nghệ sĩ khác nhau. Và riêng về Broadway Shows thì tùy theo sở thích mà quyết định. Nhưng tóm lại với những người thường đi du thuyền thì một trong hai tầu Oasis hay Allure không thể thiếu được trong danh sách tầu du lịch.

Sóng Việt Đàm Giang
06 June 2011
(cập nhật June 2012)



Du Thuyền Oasis of the Seas . Sóng Việt Đàm Giang (I)



Du Lịch
Du Thuyền Oasis of the Seas


Lời mở đầu.
Bài viết gồm hai phần, phần I là bài viết nói về tầu Oasis và những đặc tính cùng shows trên tầu.  Phần I đã đăng từ mùa hè năm 2010 trên nhiều trang internet.
Phần II nói về tầu Allure cùng so sánh những shows cùng những tiệm ăn, nhà hàng trên tầu Allure với tầu Oasis.




Oasis of the Seas
Sóng Việt Đàm Giang

Departure Port : Port Everglades, Ft. Lauderdale, Florida.

Chiếc tầu du lịch lớn nhất thế giới cần một trạm cuối (terminal) của một hải cảng lớn để làm thủ tục đón du khách. Hải cảng mới tu bổ tốn cỡ 75 triệu dollars Port Everglades    Fort Lauderdale, Florida đã được mở rộng gấp 3 lần kích thước cũ để thủ tục nhập du thuyền trở nên mau chóng chỉ trong vòng 15 phút.                        

Du thuyền “Oasis of the Seas”  của Royal Caribbean - dài khoảng 360m và bề rộng khoảng 47m, trị giá khoảng 1,4 tỷ USD.
Du thuyền “Oasis of the Seas” nặng  225,282 tấn, chở được hơn 2.000 thuyền viên cùng hơn 5,400 du khách, trải rộng 16 decks, 2,700 phòng ngủ gồm 27 duplex theo kiểu New-York loft, phòng ngủ có balcony nhìn ra boardwalk hay công viên Central , có balcony nhìn ra biển, và chia làm 7 khu vực riêng rẽ.
Du thuyền này có bốn hồ bơi, hai bức tường đá trèo, một sàn trượt tuyết, hai sân lướt ván nhân tạo, một zip line lơ lửng 9 decks, một sân khấu nước để trình diễn, một sân khấu chính thiết kế để trình diễn những show tầm vóc Broadway. Bẩy khu riêng rẽ gồm có một công viên mang tên Central Park, một Boardwalk loại Coney-Island, một đường đi bộ Royal Promenade, bốn hồ bơi và vùng thể thao, Spa và trung tâm thể thao, khu giải trí, và khu dành cho giới trẻ (Central Park, Boardwalk, Royal Promenade, Pool and Sports Zone, Vitality at Sea Spa và Fitness Center, Entertainment Place, và the Youth Zone.

Tầu tuy rất lớn nhưng lối phân chia của tầu làm du khách không cảm thấy xa cách. Lầu 5 hay boong 5 là Promenade, deck 6 là Boardwalk, deck 8 là Central park. Promenade và Central nằm giữa tầu và Boardwalk nằm cuối đuôi tàu (Aft) dẫn đến Aqua Theater. Có rất nhiều cửa tiệm ở ba deck này. Boardwalk có candy shop, donut shop, seafood shop v.v…, Central park có Park Café, Giovanni, và có quán rượu nổi Rising Tide Bar.

Muốn nhìn Rising Tide Bar nổi lên ra sao thì phải đứng ở deck 5 Promenade, cảnh thật diễm lệ khi cái bar từ từ rời deck 5 Promenade để lên deck 8 Central Park , thì trên sàn của cái bar có những vòi phun nước  màu tím, màu đỏ, màu cam v.v...phun lên. Tối đến nhìn đẹp gấp bội hơn ban ngày.
                            

Giải Trí
Opal Theater
Opal Theater là một nhà hát lớn với dàn dựng tối tân và vĩ đại với những shows biểu diễn cực kỳ linh động với diễn viên xuất hiện từ trên sân khấu có thể theo dây kéo tới balcony khác giả đang ngồi xem, hay từ trên cao hạ xuống rất bắt mắt.
Opal Theater chứa được cỡ 1,350 khách. Trong mỗi chuyến du lịch (1 tuần) thường có 3 shows khác nhau trình diễn. Chuyến du lịch đầu tháng năm (May 01, 2010) gồm:
  Come Fly With Me 
                                              
  Hairspay



Come Fly With Me: đây là một show rất công phu với những màn biểu diễn rất tuyệt vời của một nhóm ca múa hát đi trên tường, một nhóm nhào lộn bằng giây và giải lụa, màn múa hát dưới mưa, v.v…
Show trình diễn 6 lần trong ngày 2, ngày 3 và ngày 4.

Headliner Showtime: mỗi chuyến có thể có nghê sĩ khác nhau trình diễn, trong dịp này có Earl Turner trình diễn trong ngày 3 và ngày 4.

Hairspray hay “The Corny Collins” show kể chuyện một cô gái trẻ vóc dáng khá nặng nhưng có ước vọng rất mạnh đã  thắng giải trong một chương trình TV nhảy múa địa phương, và nhanh chóng trở nên một cô gái diễn xuất tuyệt vời.
Những nghệ sĩ trình diễn được tuyển chọn từ bốn tỉnh London, New York, Chicago và Los Angeles, diễn xuất với trang phục như nguyên gốc của kịch bản, kể cà dàn dựng sân khấu, ánh sáng và âm thanh.
Show trình diễn ba lần trong hai ngày chót, ngày 5 và ngày 6.

Trong ngày đầu tiên vào buổi tối có một buổi trình diễn duy nhất của Paul Boland, Paul Boland hát giả giọng một số nam ca sĩ có tên tuổi rất hay và sống động.

The AquaTheater 

Aqua Theater có một pool có hình bán nguyệt ở giữa, hai bên là hai màn ảnh lớn. Aqua Theater trang bị một hệ thống máy móc cực kỳ tối tân có thể đóng lại để trở thành một sàn biểu diễn, và có thể mở ra ngay tức khắc để biến thành một hồ bơi sâu nhất của tất cả các du thuyền để trình diễn những màn nhào lộn, và ngụp lặn như biểu diễn trong thế vận hội Olympic. Ban ngày có nhiều shows music (fountain shows) với vòi nước tắt mở lên xuống tùy theo điệu nhạc (như ở Hotel Bellagio, Las Vegas), có chiếu movie mà mặc dù trời nắng chói chang, hình xem vẫn rõ.
Hai bức tường đá leo trèo cũng nằm ở hai bên vách đối diện hồ bơi bán nguyệt này. Một zip line chạy ròng rọc cao có thể nhìn thấy đi ngang qua Boarwalk.

Show chính của Aqua Theater là Oasis of Dreams. Sân khấu này nằm ở đuôi tầu với sân khấu và  hầu hết ghế ngồi lộ thiên. Ngồi xem những màn nghệ sĩ nhào lộn  trong không khí, phóng mình xuống nước trong ánh đèn đêm màu sắc thay đổi thường xuyên, vòi nước phun lên xuống, làm khán giả phải xuýt xoa vỗ tay khen ngợi liên hồi. Những người trình diễn đều là những tay nhào lộn và ngụp lặn chuyên nghiệp trên khắp thế giới đã từng tham dự tranh giải Olympic và NCAA. Họ cũng biểu diễn những màn nhào lộn, bơi hoà hợp rất nguy hiểm làm khán giả hồi hộp vô cùng.
Show Oasis of Dreams được trình diễn rất nhiều lần trong một tuần, ai ai cũng có thể đi xem khi thuận tiện.

 Oasis of Dreams



Studio B
Studio B là một sàn trượt tuyết dành cho show và cũng có thì giờ dành cho ai muốn đi trượt tuyết. Show chính là Frozen in Time.

Frozen in Time là show trình diễn trên ice những chuyện của Hans Christian Andersen, tác giả của những chuyện nổi tiếng cho trẻ em như “The Snow Queen,” “The Red Shoes,” “The Ugly Duckling,” “The Little Mermaid” và “The Emperor’s New Clothes” Show được trình diễn rất ngoạn mục bởi nhóm biểu diễn quốc tế The Oasis of the Seas International Ice Cast. Cũng như những show chính khác, show Frozen in Time đuợc trình diễn rất nhiều lần trong một tuần.

Và sau cùng phải kể đến Comedy Live show, đây là một club với những chuyện kể dí dỏm, khôi hài dành cho người lớn do hai ba comedians đảm trách. Comedy Live club trang trí rất đặc biệt theo lối New York ngay từ ngoài cửa đến cảnh trí bên trong phòng. Những mục trình diễn này đuợc khán giả hưởng ứng cười ngang ngửa.
                  
Ngoài những giải trí trên tầu Oasis of The Seas còn có những festival parade vào ban đêm trên deck Royal Promenade như Disco Inferno Street Party, Royal Promenade Parade, v.v…

Lời bàn
Lần đầu tiên du khách có thể dự tính coi những show nào và giờ giấc ra sao bằng cách giữ chỗ trước ở nhà trước khi đi du thuyền bằng cách vào trang nhà của Royal Caribbean tại www.royalcaribbean.com. Những thông báo này được posted cỡ hai, ba tháng trước cho mỗi chuyến du lịch cho những shows ở the Opal Theater, Studio B ice-skating rink, Comedy Live và AquaTheater.
Sau khi “vé” đã được giữ chỗ trong thẻ gọi là card Seapass thì mỗi du khách đều an tâm là mình sẽ có chỗ ngồi khi lên tầu và có mặt ít nhất là 15 phút truớc khi show mở màn.
Nếu không giữ chỗ trước ở nhà thì khi đến nơi sắp hàng đễ giữ chỗ cũng không có trở ngại.
Du khách không cần có “vé” coi show, mà chỉ cần hiện diện, để người soát chỗ dùng máy scanner cầm tay để scan card Seapass là được vào ngay. Những người không có vé vẫn có thể vào xem nhưng phải sắp hàng cho đến khi những người có vé vào hết và họ sẽ đuợc vào cỡ 10 phút trước khi show bắt đầu.
Card Seapass cho mỗi du khách là một card có kích thước như một bằng lái xe, trên đó có ghi tên, số cabin, số bàn ngồi ăn tối (dinner sớm hay muộn hy my time dining), có hàng chữ đề Folio #, folio để charge tất cả những thứ mà du khách mua tên tầu từ quà, nữ trang, quần áo, đến thức uống; và Photo gallery # chứa tất cả photo chụp trên tầu, được bỏ vào một  folder đặt vào một slot trữ trong photo gallery. Mỗi lần thợ chụp hình chụp hình ai thì họ sẽ scan seapass của khách, và tất cả hình ảnh sẽ nằm trong đó vào 24 hr sau đó. Tất cả hình ảnh sẽ đuợc nằm trong folder riêng biệt đó, bất cứ lúc nào photo gallery mở cửa là khách có thể vào mở ra xem va chọn lựa mà mua hình.

Tiệm ăn

Có rất nhiều tiệm ăn và có rất nhiều lựa chọn để ăn uống.     
Sau đây là danh sách nhà hàng trên tàu
THE BOARDWALK 
Boardwalk hay sàn đi bộ đặt tên như những boardwalk ở gần các bãi biển trên lầu 6 gồm:
· Seafood Shack: tiệm ăn với đồ ăn biển với tráng miệng rất nhiều và có nhiều nước giải khát pha chế, thức ăn có thể ăn tại tiệm hay mang ra ngoài.
· Boardwalk Bar: đây là bar chính của Boardwalk có trái cây, salads, và sandwiches.
· Boardwalk Donut Shop: bán donut và thức ăn nhâm nhi 
· Ice Cream Parlor: bán đủ loại Ice cream có trang trí rất mỹ thuật. 
· Johnny Rockets: tiệm ăn trang trí kiểu thời 50's với những người bồi bàn làm trò giải trí du khách.

CENTRAL PARK 

· 150 Central Park: Tiệm ăn khá sang trọng với thực đơn và thức uống chọn lọc 
· Giovanni's Table: Tiệm ăn với thức ăn Italy cổ truyền
· Park Café: Thức ăn ngon nhiều loại khác nhau. 
· Vintages: Quầy bán rượu có rất nhiều loại rượu vang ngon và thức ăn nhâm nhi với rượu.
· Chops Grille: Tiệm ăn với thịt bò thượng hạng đặc biệt (Royal Caribbean's signature steakhouse) nhìn ra Central Park,
ROYAL PROMENADE 
· Mondo Café: mở suốt ngày đêm có thức ăn Italy, Spain và Cuba, thức uống, café,
· Sorrento's Pizzeria: có pizza kiểu New York style pizza, có thể ăn tại chỗ hay mang đi ra ngoài. 
· Café Promenade: có café, nước trái cây nhiều loại, và sandwiches suốt ngày.
· The Cupcake Cupboard: có cupcakes và nhiều thứ khác.
POOL AND SPORTS ZONE 
· Solarium Bistro: ban ngày có thức ăn lành mạnh, ban đêm có nhạc để nhảy dưới bầu trời. 
· The Wipe Out Café: có thức ăn buffet đủ loại.
· Izumi Asian Cuisine: bán thức ăn đặc biệt và sushi bar, và phải gọi trước giữ bàn.
VITALITY AT SEA SPA AND FITNESS CENTER 
· The Vitality Café: nhà hàng này có thức ăn lành mạnh cho những người đến tập thể thao.
THE CLASSICS, và lẽ dĩ nhiên trên tầu có những nhà hàng cổ điển như tất cả các tầu du lịch khác: 
· Opus Dining Room: Phòng ăn chính với 1920s Art Deco
· Windjammer Marketplace: Tiệm ăn buffet mở cho ăn sáng , trưa, và chiều cho du khách muốn ăn mà không muốn ngồi ở phòng ăn Opus Dining.
· In-Stateroom Service: và nếu có ngày lười biếng không muốn ra ngoài thì có room service.



Bài viết chỉ là một tóm lược những đề mục chính của du thuyền The Oasis of the Seas,  ngoài ra còn rất nhiều những chi tiết khác đều có bình thường trên tất cả các du thuyền không được đề cập đến như sòng bạc, phòng hình ảnh, thư viện, v.v..
May 11, 2010

Sóng Việt