Thursday, June 20, 2019

Chàng Gù Nhà Thờ Đức Bà. Paris. SVĐG


Chàng Gù Nhà Thờ Đức Bà tại Paris.
Victor Hugo




Cuốn tiểu thuyết Chàng Gù Nhà Thờ Đức Bà là cuốn sách đầu tiên viết bao quanh cuộc đời từ vua nước Pháp cho đến chuột cống rãnh Paris. Victor Hugo đã diễn tả câu chuyện như một kịch trường vĩ đại về lịch sử thời đó, hiện thân qua bối cảnh nhà thờ, xã hội như nhân chứng và chủ xướng thầm lặng. Đây cũng là cuốn chuyện đầu tiên nói đến những kẻ nghèo hèn, hành khất, những kẻ bị coi như thành phần bất hảo, được xem như là những kẻ chủ xướng.
Cuốn tiểu thuyết ra mắt năm 1831 đã thu hút quần chúng mãnh liệt và là động lực khơi mào sự tu bổ những kiến trúc bị tổn hại theo thời gian và chiến tranh. Tối hậu đã dẫn đến sự trùng tu và xây dựng một kho để Thánh vật cho Nhà Thờ Paris vào giữa thế kỷ thứ 19 bởi chính quyền thời vua King Louis-Philippe I. Công việc trùng tu được giao cho Kiến Trúc sư Jean-Baptiste Lassus và Eugene Viollet-le-Duc thực hiện bắt đầu vào năm 1844. Sau khi Lassus qua đời năm 1857 thì Viollet-le-Duc là người duy nhất tiếp tục công việc.

Viollet-le-Duc là một người có đầu óc phóng khoáng, ông đã có lời như sau: "bảo trì, tu bổ một tòa nhà lớn không phải chỉ là duy trì nó, sửa chữa nó, hay làm lại nó, mà là công việc tái thiết lập để nó trở nên một trạng thái hoàn tất có thể chưa từng hiện hữu ở một thời điểm nhất định nào đó".

Viollet Le-duc đã biến một Nhà Thơ đổ nát điêu tàn thành một nhà thờ như chúng ta hiện thấy.
Ngoài những máng xối thoát nước có hình thú hả miệng (gargoyles) ra thì kiến trúc sư Villolet Le-Duc thêm vào một số quái vật mình sư tử đầu thú (chimieres) được trưng ở tầng hai giữa hai tòa tháp. Một tòa tháp nhọn ở phía đông của nhà thờ cao 90 m cũng được xây lại. Một vài điểm lý thú chung quanh công việc tu bổ bảo trì Nhà Thờ Notre Dame của Le-Duc đã được biết đến. Chung quanh ngọn tháp nhọn cao vút này có trưng tượng của nhiều thánh. Tất cả các tượng đều quay lưng vào tháp nhọn, hướng mặt xuống phía dưới, riêng một tượng ở cửa Nam (tượng St Thomas) thì trong tay phải cầm một thước vuông, lại quay mặt nhìn lên ngọn tháp mà khuôn mặt thánh này giống kiến trúc sư Le-Duc. Mời quan sát hình đính kèm xem có đúng không nhé.
 



Tượng Các Thánh
Thánh Thomas
KTS Viollet-le-Duc

Tượng bán thân Chàng gù Quasimodo


(*) Tượng Quasimodo có thể thấy tại cửa Bắc phía trên cao.

Ông Le-duc là một người rất hâm mộ chuyện của Victor Hugo với Chàng Gù Nhà Thờ Đức Bà. Chúng ta có thể đã biết như trên rằng Le-Duc là người đã xây cái ngọn tháp cao vút (spire), và có tượng thánh St Thomas, tay cầm một cái thước vuông, ngửng mặt ngưỡng mộ nhìn lên ngọn tháp, công trình xây dựng của chính ông, mà khuôn mặt thánh St Thomas giống hệt khuôn mặt của Le-Duc; nhưng có mấy ai biết rằng trên một góc vách cao bên cửa Bắc (trên Rue du Cloitre Notre Dame) có hình một tượng bán thân nhân vật gù Quasimodo trong chuyện Chàng Gù nhà thờ Đức Bà ?
 
Chàng Gù Nhà Thờ Đức Bà (Notre Dame de Paris)

Nhà thờ cổ kính tại Paris
Có chuyện chàng gù thật dị kỳ
Ẩn náu đời buồn đầy tuyệt vọng
Yêu thầm chết thảm ngập lâm li.
Hugo viết chuyện tình lưu vết (1)
Le-Duc tu trì dấu vẫn ghi (2)
Góc vách cheo leo nhìn tuyệt vọng
Ngày đêm nắng gió hứng sầu bi.
          Sóng Việt Đàm Giang
           
(1) Victor Hugo
(2) Eugène Emmanuel Viollet-le-Duc

Tuesday, June 11, 2019

Nguyễn Du. Bắc Hành Tạp Lục. Người Gảy Đàn Đất Long Thành. SVĐG



 LONG THÀNH CẦM GIẢ CA (119/249)

Bài Long Thành Cầm Giả Ca viết về cô Cầm, một cô gái một thời nổi danh vào bậc nhất chốn Thăng Long, nhưng khi tác giả gặp lại thì cô Cầm dung nhan tàn tạ, gầy còm, ngồi nép bên góc chiếu, trông thật đáng thương. Hình ảnh tương phản của một cô Cầm ngày xưa xinh đẹp tài cao, và một người đàn bà tiều tụy khi gặp lại đã làm Nguyễn Du không khỏi bùi ngùi thương xót và tạo nên bài thơ Long Thành Cầm Giả Ca.
Long Thành Cầm Giả Ca là bài thơ đầu tiên trong tập Bắc Hành Tạp Lục, phần tiểu dẫn xin chép lại ở đây.
Bài ca Người gảy đàn đất Long-Thành (Làm trong khi đi sứ).
Người gảy đàn đất Long-Thành  không rõ họ tên là gì. Nghe nói thuở nhỏ, nàng học đàn "Nguyễn" (đàn nguyệt ca do Nguyễn Hàm , người đời Tấn ở Trung Quốc chế ra) trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cũ người chết, kẻ bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ ôm đàn hát rong. những bài nàng gãy đều là những khúc cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không hề được biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi tiếng hay nhất một thời.
Hồi còn trẻ (1792-1793?), tôi đến kinh đô thăm anh tôi (Nguyễn Nễ), ở trọ gần Giám hồ (hồ Gương). Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có đến vài chục người. Nàng nổi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo nói khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng uống hết ngay, tiền thưởng nhiều vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy tôi nấp trong bóng tối, không thấy rõ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má bầu, trán giô, mặt gẫy, không đẹp lắm, nhưng nước da trắng trẻo, thân hình đẫy đà, khéo trang điểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo màu hồng, quần lụa cánh chả, có vẻ phong nhã. Nàng hay uống rượu, hay nói pha trò, con mắt long lanh, không coi ai ra gì. Khi ở nhà anh tôi mỗi lần uống rượu thì nàng uống say đến nỗi nôn bừa bãi, nằm lăn ra đất, các bạn có chê trách cũng không lấy làm điều.
Sau đó vài năm, tôi rời nhà về Nam (Thái Bình), mấy năm liền không trở lại Long-Thành. Mùa Xuân năm nay (1813) tôi lại phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long-Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên. Chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy, một chị gầy gò, vẻ tiều tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im lặng ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đã quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi thì chính là người trước kia đã gặp.
Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế! Tôi bồi hồi, không yên, ngửng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay. Người ta trong cõi trăm nãm, những sự vinh nhục buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sau, để ghi lại mối cảm hứng.
LONG THÀNH CẦM GIẢ CA (119/ 249)
Long thành giai nhân,
Tính thị bất ký thanh.
Độc thiện Nguyễn cầm,
Cử thành chi nhân dĩ cầm danh.
Học đắc tiên triều cung trung cung phụng khúc,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến,
Giám hồ hồ biên dạ khai yến.
Kỳ thời tam thất chính phương niên,
Hồng trang yểm ái đào hoa diện.
Đà nhan hám thái tối nghi nhân;
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến.
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm,
Thanh như song hạc minh tại âm.
Liệt như Tiến phúc bi đầu toái tích lịch (1)
Ai như Trang tích bệnh trung vi Việt ngâm (2).
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện,
Tiện thi Trung-hòa đại nội âm (3).
Tây sơn chư thần mãn toa tận khuynh đảo,
Triết da truy hoan bất tri bão.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu (4),
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
Hào hoa ý khí lăng vương hầu,
Ngũ-lãng thiếu niên bất túc đạo (5).
Tính tương tam thập lục cung xuân,
Hoạt tố Trường-an vô giá bảo (6).
Thủ tịch hồi dầu nhị thập niên,
Tây sơn bại hậu dư tam thiên (7)
Chỉ xích Long-thành bất phục kiến,
Hà luống thành trung ca vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trụng mãi tiếu (8).
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa.
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn mi bất sức trang.
Thùy tri tựu thị đương
thời thành trung đệ nhất diệu.
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy.
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi,
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự.
Giám hồ tịch trung tằng kiến chi.
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải.
Tây sơ cơ nghiệp tận tiêu vong.
Ca vũ không di nhất nhân tại.
Thuần tức bách niên năng kỷ thi,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
Nam hà qui lai đầu tận bạch (9)
Quái đề giai nhân nhan sắc suy.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng.
Khả liên đối diện bất tương tri.

Chú thích:
1-Tiến Phúc bi: bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang-tây. Tương truyền ông Phạm trọng Yên đời Tống, lúc làm quan ở Bá Dương, có người học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho rập một nghìn bản để bán lấy tiền. Chưa rập xong thì một đêm, bản in bị sét đánh vỡ tan.
2. Câu chuyện Trang Tích. Trang Tích là người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở vương hỏi mọi người: "Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở, được phú quý rồi, thì còn nhớ nước Việt nữa không?". Viên thị ngự đáp: "Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra trong lúc đau ốm. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng nước Sở". Sở vương sai người lén nghe thì thấy Trang Tích nói tiếng Việt.
3. Trung Hòa: tên một điện của triều Lê ở Thang-Long.
4. Triền đầu: lấy khãn quấn đầu làm vật tặng thưởng. Đời Đường trong yến tiệc vua đãi, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu như vật tặng thưởng. Về sau các món tiền thưởng cho người ca múa được gọi là triền đầu.
5- Ngũ Lãng: nơi có nãm lãng tẩm của đế vương đời Hán, nơi này dân hào hoa phú quý thường ở. Bài Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu: Ngũ Lãng niên thiếu tranh triền đầu.
6. Trường An: chỉ Thãng Long.
7. Sau khi Tây Sơn bại, tôi vào Nam, ý muốn nói sau năm 1802 nhà thơ vào Phú Xuân làm quan.
8. Tuyên Phủ chỉ quan trấn thủ Bắc Thành, vào lúc Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc mùa xuân 1813.
9. Nam Hà: chỉ phía Nam sông Gianh.

NGƯỜI GẢY ĐÀN Ở LONG-THÀNH
Người Gảy Đàn Ở Long Thành
(Sóng Việt Đàm Giang dịch xuôi nghĩa)
Người đẹp Long Thành
Tên họ chẳng ai hay
Đàn Nguyễn rất thành thạo
Dân thành thường gọi là nàng Cầm
Nàng gãy khúc "Cung phụng" triều vua xưa
Một khúc đàn hay tuyệt do trời ban trần thế
Nhớ hồi trẻ tôi đã gặp nàng một lần
Bên hồ Giám trong một đêm yến ẩm
Tuổi nàng cỡ độ hai mươi mốt
Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp như hoa
Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả ái
Ngón tay lướt năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông
Thanh trong như đôi hạc kêu nơi xa vắng
Mạnh như sét đánh tan bia Tiến phúc
Sầu bi như Trang Tích lúc đau ốm ngâm rên tiếng Việt
Người nghe nàng say sưa không biết mệt
Trong khúc nhạc thành đại nội Trung Hoà.
Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả
Lo vui chơi suốt đêm không nghỉ
Bên phải bên trái tranh nhau cho thưởng
Tiền bạc coi thường có nghĩa chi.
Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu
Giới trẻ nơi Ngũ Lăng không đáng kể
Dường như ba mươi sáu cung xuân
Nay Tràng An đã hun đúc được một báu vật vô giá.
Trong đầu nhớ lại đã hai mươi năm
Tây sơn thua bại, tôi vào Nam
Long Thành gần mà cũng chẳng được thấy
Còn nói chi đến chuyện múa hát trong thành.
Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc chơi vui đãi
Ca kỹ trẻ xinh đẹp cả một đám
Chỉ có một kẽ tóc hoa râm ngồi cuối góc
Mặt xấu, sắc khô, người hơi nhỏ
Mày phờ phạc không điểm phấn tô son
Sao mà đoán được là một đệ nhất danh ca thời xưa được.
Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ
Lắng tai nghe lòng càng đau xót thêm
Tự nhiên nhớ lại hai mươi năm trước
Bên hồ Giám trong dạ tiệc nàng đó ta đã thấy
Thành quách đã chuyển, người cũng thay đổi
Nương dâu nay biến thành biển cả
Cơ nghiệp Tây sơn cũng đà tiêu tán
Còn sót lại đây một người múa ca.
Thấm thoắt trăm năm có là bao
Cảm thương chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt
Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng
Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn.
Trừng hai mắt nhớ lại chuyện cũ
Thương cho đối mặt mà chẳng nhận ra nhau. 

Nàng Cầm đất Thăng Long
(Sóng Việt phỏng dịch theo thể song thất lục bát)

Người đẹp Long Thành xưa một độ
Nàng ra sao tên họ ai hay
Nguyễn đàn điêu luyện cung dây
Dân thành thường gọi khéo tay nàng Cầm.

"Cung phụng" triều xưa Cầm gảy tiếng
Một khúc đàn hay miếng trời ban
Nhớ hồi còn trẻ một lần
Gặp bên hồ Giám phục thầm tài danh.

Hăm mốt xuân tuổi xanh đang độ
Áo xiêm hồng sắc lộ như hoa
Rượu tô diện mặt như thoa
Ngón tay réo rắt ngọc ngà năm cung.

Tiếng khoan như rừng thông vuốt nhạc
Thanh như âm đôi hạc vọng xa
Mạnh như sét đánh tan bia
Sầu như Trang Tích rên ca Việt mình.

Người nghe nàng hữu tình mê muội
Khúc nhạc thành đại nội triều xưa
Tây sơn quan tướng đều ưa
Ngả nghiêng chơi suốt đêm chưa thỏa lòng.

Cùng tranh nhau tây đông ban thưởng
Tiền bạc như không tưởng nghĩa chi.
Vương hầu hào khí mấy thì
Ngũ Lăng giới trẻ đáng gì kể đâu.

Lả lướt đàn cung thâu băm sáu
Trầm bổng cao đâm thấu tiếng vang
Trải qua dâu biển tan hoang
Đất Tràng nay có báu vàng trần gian.

Nhớ thuở hai mươi năm về trước
Tây sơn thua, tôi bước vào Nam
Long Thành chẳng được thấy gần
Nói chi đến chuyện nhạc đàn vui chơi.

Nay phủ gia vui mời yến tiệc
Ca kỹ xinh trẻ đẹp đầy bàn
Góc kia ngồi kẻ điêu tàn
Dung nhan tiều tụy, chẳng màng điểm trang.

Đoán làm sao được nàng thời trẻ
Nhất danh cầm lắm kẻ chuộng ưa
Lệ trào qua khúc nhạc xưa
Lắng nghe lòng dạ xót thương ngậm ngùi.

Bồi hồi nhớ hai mươi năm trước 
Vui cùng nàng bên nước hồ đây
Quách thành chuyển, lắm đổi thay
Nương dâu biển cả xưa nay tuần hoàn.

Giang sơn Tây  nay đà tiêu tán
Còn sót  đây kẻ bán nhạc rao
Trăm năm thấm thoắt là bao
Cảm thương chuyện cũ thấm bào lệ sâu.

Ta từ Nam về đầu cũng bạc
Trách làm chi một sắc vơi tàn
Trừng hai mắt nhớ lan man
Thương cho đối mặt chẳng màn nhận nhau.

Sóng Việt- Đàm Giang
*
 Ghi chú.
Thể thơ song thất lục bát (hai 7+6-8), cũng được gọi là lục bát gián thất (6-8 xen hai 7) hay thể ngâm là một thể văn vần (thơ) đặc thù của Việt Nam. Một số tác phẩm lớn trong văn chương Việt Nam, trong đó có bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra quốc âm đã được viết theo thể thơ này.

Thơ song thất lục bát gồm có 2 câu 7 chữ và 1 câu 6 chữ, 1 câu 8 chữ.
Chữ cuối câu bảy trên vần với chữ thứ 5 câu bảy dưới, chữ cuối câu bảy dưới vần với chữ cuối câu lục, tiếng cuối câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát. Và chữ cuối câu bát vần với chữ thứ 5 (đôi khi chữ thứ 3) của câu thất tiếp theo. (Wikipedia)

WilliamShakespeare. Thơ Sonnet số18.SVĐG



William Shakespeare.
Bài thơ Sonnet số 18

Sóng Việt Đàm Giang

Bài thơ này là bài chuyển tiếp sau bài bài số 17 (
3 tứ cú âm hệ abab-cdcd-efef, và hai câu kết liên vận gg), mà các nghiên cứu gia cho rằng từ bài 1 đến 17 ông viết về tình cảm của ông với một thiếu niên trẻ và đẹp.

      Nói một cách tổng quát, tác giả so sánh ngày hè với một thiếu niên trẻ đẹp. Ngày hè với tác giả sao thiếu thốn quá: quá ngắn, quá nóng, quá phũ phàng, đôi khi quá u ám, nhưng kỳ lạ làm sao là người thiếu niên trẻ đẹp ở đây lại được ví với những cái đẹp nhất của ngày hè như mát mẻ, ôn hòa, ấm áp, như duyên dáng nụ hoa tháng Năm, và những cái đẹp này đã được mang ca tụng đến độ tuyệt vời khi so sánh với ngày hè.
     Trong câu đầu tiên, ta thấy tác giả bài thơ cân nhắc và tự hỏi sự so sánh người đẹp này với mùa hè có cần không vì ông đã có câu trả lời, nhưng ông vẫn cứ kể cho độc giả nghe. Người đẹp này quá đẹp, đẹp từ tính tình đến ngoại diện. 

     Sang đoạn hai, nhà thơ chứng minh sự khác biệt giữa mùa hè, và người đẹp. Mùa hè có thể mang gió tháng Năm, làm rơi rụng hoa, có thể nắng gắt quá, có thể tẻ nhạt quá khi bị mây xám che mặt trời, tuy nhiên người đẹp của tác giả thì dù trải qua những trắc trở, những hủy hoại phũ phàng của thời gian, vẫn không thay đổi, vẫn đẹp. Tại sao thế nhỉ, cái đẹp bất diệt, cái đẹp vĩnh cửu ở đây có phải là cái đẹp thể chất không hay là một cái đẹp khác quý hơn.

     Sự khai triển và ca tụng cái đẹp vĩnh cửu đã hiện ra qua những câu chót của bài thơ: phải, chỉ có thơ, chính thơ mới mang được cái đẹp vĩnh cửu tồn tại với thời gian, chỉ có thơ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác mới làm cái đẹp được bất tử.
     Những hàng thơ bất tử hay chính là những hàng thơ của Shakespeare sẽ mãi mãi tồn tại với thời gian. Shakespeare nói về bài thơ như thể chính là nói về ông, ông sẽ bất tử với thời gian, tên ông sẽ lưu lai ngàn năm sử sách. Và quả thế, người ta chỉ biết đến một tên ông, nào có ai cần biết người thanh niên đẹp trai này, hay trong những bài thơ viết sau đó về người đàn bà tóc màu xẫm, da ngăm, là ai đâu.

Sonnet 18

Shall I compare thee to a summer's day?
Thou art more lovely and more temperate:
Rough winds do shake the darling buds of May,
And summer's lease hath all too short a date:

Sometime too hot the eye of heaven shines,
And often is his gold complexion dimm'd;
And every fair from fair sometime declines,
By chance, or nature's changing course, untrimm'd;

But thy eternal summer shall not fade,
Nor lose possession of that fair thou owest;
Nor shall Death brag thou wander'st in his shade,
When in eternal lines to time thou growest; 

So long as men can breathe, or eyes can see,
So long lives this, and this gives life to thee.


Khúc Thi ca số 18 của Shakespeare

Tôi sẽ so sánh em với ngày hè đây nhé
Dù biết em đáng yêu và thuần hậu hơn đầy:
Gió phũ phàng tháng Năm lắc nụ hoa vừa hé,
Mượn mùa hạ thật là quá ngắn cho một ngày:

Mặt trời khi chiếu sáng, rực nóng gay gắt quá
Cũng có lúc sắc vàng bị mây xám phủ mờ
Và mọi vẻ dù đẹp, cũng có thể biến hóa
Thành tẻ nhạt thiên nhiên do thay đổi không ngờ

Nhưng mùa hè vĩnh cửu nơi em sẽ bất diệt
Chẳng mất đi cái đẹp sở hữu em đang mang
Ngay thần chết, không thể khoe có em dưới chướng
Khi em bước vào thơ vĩnh cửu với thời gian
Khi thế gian còn hơi thở, nhân loài còn thấy
Thì thơ này còn sống, tồn tại mãi nơi đây.

(Sóng Việt Đàm Giang phỏng dịch)
May 27 2019


Tham khảo

Brooke, Tucker. Shakespeare of Stratford. New Haven: Yale UP, 1926.
Burgess, Anthony. Shakespeare. London: Jonathan Cape, 1970.
Kay, Dennis. Shakespeare. New York: William Morrow, Inc., 1992.
Levi, Peter. The Life and Times of William Shakespeare. London: Macmillan, 1988.
Neilson, Francis. Shakespeare and the Tempest. New Hampshire: Richard C. Smith Inc., 1956.
Rowse, A.L. Shakespeare the Man. London: Macmillan, 1973.

Sóng Việt Đàm Giang
 May 27, 2019

WilliamShakespeare. Thơ Sonnet số 2.SVĐG

William Shakespeare
Sonnet #2
Sóng Việt Đàm Giang phỏng dịch

Hai bài thơ trong tập Sonnet 154 bài của Shakespeare.

Những bài thơ sonnet của Shakespeare nói chung viết gồm 3 tứ cú âm hệ abab-cdcd-efef, và hai câu kết liên vận gg phát triển theo lối bố cục, chứng minh, khai triển và kết luận.
     Bài sonnet thứ 2 trong 17 bài đầu tiên ông viết cho một người đàn ông trẻ, thúc dục anh lấy vợ, có con, và truyền cái đẹp của anh cho đứa con trai ra đời. Ngoài đời Shakespeare lấy vợ rất sớm năm 18 tuổi và có ba con (hai gái một trai) trước khi rời nhà lên London làm việc. Phải chăng những bài thơ mượn tiếng thúc dục người đàn ông trẻ lấy vợ chính là lời nói của nhà thơ về chính ông?


    Trong bốn câu đầu nhà thơ viết dù anh bây giờ còn trẻ rất đẹp, nhưng bốn mươi năm sau trán nhăn đâu còn cái đẹp như xưa nữa. Phân tích cái đẹp hiện tại, ý nghĩa về cái đẹp, làm sao trả lời ngoài cách xụ mặt với cảm tưởng ngượng ngùng vì anh mất cái đẹp rồi. Nhưng có cách chứ, đó là anh sẽ hãnh diện nói về đứa con sẽ nối tiếp mang những đẹp của anh trong tương lai, và cái đẹp đó sẽ không bao giờ mất vì được nối tiếp mãi mãi. Nhà thơ dường như thơ thới vì đã tìm ra giải pháp để truyền cái đẹp bất tử với thời gian.

Sonnet No 2

When forty winters shall beseige thy brow,
And dig deep trenches in thy beauty's field,
Thy youth's proud livery, so gazed on now,
Will be a tatter'd weed, of small worth held:

Then being ask'd where all thy beauty lies,
Where all the treasure of thy lusty days,
To say, within thine own deep-sunken eyes,
Were an all-eating shame and thriftless praise.

How much more praise deserved thy beauty's use,
If thou couldst answer 'This fair child of mine
Shall sum my count and make my old excuse,'
Proving his beauty by succession thine!

This were to be new made when thou art old,
And see thy blood warm when thou feel'st it cold.

Bài Sonnet số 2

"Khi bốn mươi năm khắc hằn thêm tuổi,
Làm nhăn nheo khuôn mặt đẹp anh mang,
Đầy kiêu hãnh mà mọi người đang ca ngợi,
Sẽ chỉ còn giá trị như đám cỏ nhàu hoang:

Lúc bấy giờ thì hỏi anh cái đẹp còn đâu,
Bảo vật của những ngày xưa hùng tráng,
Rồi anh trả lời với đôi mắt trùng sâu,
Là bẽn lẽn là ngượng ngùng không tươi sáng,

Thay vào đấy nếu anh duy trì cái đẹp,
Hãnh diện nói “Đây cái đẹp của con tôi,
Nó thừa hưởng từ tôi không chối được”
Là con anh anh cho hết không thôi!

Nó là mùa xuân khi tuổi anh già cỗi,
Là luồng máu nóng làm ấm anh khi lạnh.


(Sóng Việt Đàm Giang phỏng dịch)
May 27 2019

WilliamShakespeare.1. Thơ Sonnet.



William Shakespeare
1
                            Một Chút Về Thơ Sonnet của Shakespeare

                            Sóng Việt Đàm Giang sưu tầm và biên soạn


William Shakespeare (1564-1616)

        Những chi tiết về cuộc đời của William Shakespeare không được rõ rệt, một số lớn tài liệu đều viết căn cứ trên giấy tờ cũ lưu lại hoặc tại thành phố gia đình ông sinh sống là Stratford-Upon-Avon, hay London, Anh quốc.

       William Shakespeare sinh ngày 23 tháng 4 năm 1564 (tài liệu cho hay ông được rửa tội ngày 26/4/1564, cho nên người viết tài liệu có lẽ đã đặt ngày sinh của ông là 3 ngày trước đó, theo đúng thủ tục tôn giáo) tại thị trấn Straford-Upon-Avon, Warwickshire, Anh. Cha ông buôn bán trong ngành da, có thời kỳ được bầu là thị trưởng thành phố ông ở (1568), mẹ ông là con gái của một gia đình khá giả có tiếng.
       Thủa bé Shakespeare theo học ở trường dậy học tiếng La tinh, nhưng phải bỏ học sớm, ở nhà giúp bố kinh doanh. Năm 18 tuổi (1582), Shakespeare kết hôn với Anne Hathaway và có ba con. Năm 21 tuổi (1585), Shakespeare lên sống ở London và bắt đầu tham gia hoạt động sân khấu.
Khởi đầu từng làm chân giữ ngựa ở cửa rạp, làm vai nhắc tuồng, sau đó ông trở thành diễn viên đoàn hát của Leicester (1594). Trong thời gian này ông bắt đầu sáng tác kịch bản, vở đầu tiên xuất hiện những năm 1590. Tại đây, ông gặp bá tước Southampton là người giúp đỡ Shakespeare rất nhiều cho đến năm 1601, bá tước Southampton bị kết tội dấy loạn (cuộc nổi loạn Essex) chống triều đình Elizabeth và bị kết án tù làm ông mất một người tài trợ quan trọng. Trong hai năm rạp hát phải đóng cửa do bệnh dịch (1592-1594), ông sáng tác hai tập thơ nổi tiếng “Venus and Adonis” và “The Rape of Lucrece” đề tặng bá tước Southampton. Cũng trong thời gian này ông viết một số bài thơ sonnet; có thể là do thời điểm đó là thịnh hành của sonnet, và có thể không phải là những bài thơ tình cảm gắn vào một nhân vật nào đó. Ông có lẽ ngưng viết thơ sonnet và trở lại viết kịch vào năm 1594 sau khi gánh hát được phép mở cửa lại.
        Năm 1599 ông là một trong những người đóng góp tài chính để thành lập nhà hát Globe, nơi trình diễn những vở kịch của ông. Mười năm sau (1609) mang danh Đoàn Kịch Quốc Vương, ông cho diễn kịch ở rạp hát có mái che, có tường ngăn đuợc giá lạnh bên ngoài nên có thể trình diễn được cả vào mùa đông. Đây là một sự tiến bộ trong kịch nghệ vì trước đó kịch thường trình diễn ở ngoài trời.
       Năm 1597, ông mua một ngôi nhà khá đắt tiền có đất rộng ở quê ông (Stratford-upon-Avon) và đặt tên là New Place nhưng vẫn sống ở London. Năm 1611, sau khi từ bỏ sân khấu ông trở về nhà, sống ở đó cho đến ngày ông từ trần (ngày 23 tháng 4, 1616). Mộ ông được chôn ngày 25 tháng 4, 1616 ở Holy Trinity Church, Stratford-upon-Avon, nơi mà ông được làm lễ rửa tội 52 năm trước đó (tài liệu chính thức lưu trữ tại nhà thờ Holy Trinity ghi rõ ngày rửa tội và ngày chôn). Tấm đá trên mộ ông có ghi bốn câu thơ ông viết được xem như là một lời nhắn nhủ đến những ai muốn di chuyển mộ của ông đến Websminster Abbey hay quật mồ ông để làm giảo nghiệm.

Good frend for Iesvs sake forbeare,
To digg the dvst encloased heare.
Blest be ye man yt spares thes stones,
And cvrst be he yt moves my bones

Good friend, for Jesus' sake forbeare
To dig the dust enclosed here.
Blessed be the man that spares these stones,
And cursed be he that moves my bones.



Căn nhà của gia đình Shakespeare tại Stratford-upon-Avon

                                                        Nash’s house & New Place 


                                    Mộ và tượng cùng nơi hành lễ trong Holy Trinity Church

Sự Nghiệp
Shakespeare sáng tác khá nhiều với 37 vở kịch và hai trường ca là Venus and Adonis (1593), The Rape of Lucrece (1594), và tập thơ Sonnets (Tập thơ Mười Bốn Hàng) gồm 154 bài Sonnets (1592 - 1598) được xuất bản năm 1609.

Một số nghiên cứu gia chia sáng tác của ông làm 3 thời kỳ:

       Thời kỳ đầu (1590-1600): Shakespear viết các tác phẩm gồm nhiều kịch bản đề tài khác nhau về vua chúa như Henri IV (1599), Richard III (1593). Hài kịch như The Comedy of Errors, Two Gentlemen of Verona, A Midsummer Night's Dream, The Merchant of Venice, The Merry Wives of Windsor.Và vào cuối thời kỳ thứ nhất, bi kịch như Romeo và Juliet, Julius Caesar.

      Thời kỳ thứ hai (1601-1608): ngoài một số hài kịch như All's Well That Ends Well, Timon of Athens, đây là giai đoạn ông viết những vở hài kịch cay đắng và những vở bi kịch được coi như kiệt tác trong nghệ thuật và văn chương: Hamlet(1601), Othello (1604), Macbeth(1605), King Lear (1607), v.v…

     Thời kỳ cuối (1609-1612) là giai đoạn ông muốn tìm kiếm cách giải thoát cho những mâu thuẫn của xã hội. Sự lý tưởng hóa cuộc sống được thể hiện qua những vở kịch mang tính chất huyền thoại, trữ tình, hoặc bi hài kịch như: Pericles(1609), Cymbeline (1610), The Winter's Tale (1610), The Tempest (1611), Prince of Tyre, v.v…

     Tập thơ Sonnet của Shakespeare do Thomas Thorpe xuất bản năm 1609, không có sự chấp thuận của ông, dưới đầu đề "Shakespeare, Sonnets, Never before imprinted". Bản đề là “Never before imprinted" nhưng thực sự, trong số 154 bài Sonnets chứa 152 bài chưa từng xuất bản trước đó. Hai bài 138 (When my love swears that she is made of truth) và 144 (Two loeves have I of comfort anh despair) đã in trong tập "The Passionate Pilgrim" vào năm 1599.

     Căn cứ vào đặc điểm nội dung cùng hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, nghiên cứu gia nghiêng về kết luận là các bài Sonnets được sáng tác vào khoảng từ 1592 - 1598. Đây là giai đoạn mà thể thơ Sonnet được phát triển mạnh mẽ trong văn học Phục hưng Anh.

      Sonnet của ông là những dòng cảm xúc của một tâm hồn chân thành trước tình bạn và tình yêu, với sự tri âm, đồng cảm. Tình yêu trở thành muôn màu, đa dạng với nhiều cung bậc khác nhau diễn tả hạnh phúc, dỗi hờn, đau đớn.
      Đặc biệt, thơ Sonnet của Shakespeare nói nhiều về biến đổi của thời gian: thời gian nhớ quá khứ, nuối tiếc hiện tại và lo lắng cho tương lai, thêm vào đó là ám ảnh về sự phôi phai sau cái chết và quên lãng của người đời. Giải pháp để chống lại sự lãng quên hiển nhiên là những bài thơ ông làm, như một hình thức lưu giữ thời gian, chống lại sự tàn phá mãnh liệt của nó để hướng đến một cao điểm hạnh phúc hơn. Sự lưu giữ đó thể hiện qua giòng thơ tình yêu, qua niềm vui gia đình các con và chính tác phẩm nghệ thuật ông tạo dựng.

Những đối tượng trong sonnet của Shakespeare.
      Thơ sonnet của Shakespeare hầu hết đền nói đến một người đàn ông trẻ đẹp và một người đàn bà. Những nhân vật này không hề được ông tiết lộ và cho đến hiện tại cũng không ai biết được những người đó là ai: là người thật, hay là những người do ông tạo ra dựa vào những nhân vật chung quanh ông.
      Người đàn ông trẻ trong thơ sonnet của Shakespeare đã đuợc bàn luận rất nhiều và có hai giả thuyết được đưa ra: có thể người đàn ông đó là bá tước Southampton thứ ba hay bá tước Pembroke thứ ba.
Người đàn ông thứ nhất: Henry Wriothesley, 3rd Earl of Southampton (6 October 1573 – 10 November 1624), là người mà ông đã đề tặng tập Venus and Adonis năm 1593, và The Rape of Lucrece (1594). Trong tập thơ thứ nhất lời đế tặng rất bình thường, nhưng sang đến tập thứ hai và một năm sau đó (1594) thì giọng điệu có phần thân thiết và tha thiết hơn nhiều."The love I dedicate to your lordship is without end ... What I have done is yours; what I have to do is yours; being part in all I have, devoted yours."
      Bỏ ngoài sự bàn cãi về hai chữ viết tắt (Mr W.H.) ở đầu tập thơ sonnet mà Thomas Thorpe xuất bản, thì những bài thơ sonnet làm trong thời gian 1592-1594 của ông coi như hiển nhiên là viết về bá tước Southampton, một người đàn ông trẻ đẹp trai (Fair Youth) kém Shakespeare 9 tuổi. Thời gian tính của những bài thơ sonnet từ số 1 đến 17 này nếu viết về bá tước Southampton vào năm 1592-1594 thì rất hợp lý vì năm sau (1595) là năm bá tước Southampton có liên hệ với Elizabeth Vernon và kết quả là những xáo trộn đáng kể sau đó.

Ngưòi đàn ông thứ hai là William Herbert, 3rd Earl of Pembroke (8 April 1580-10 April 1630). Bá tước Pembroke kém Shakespeare 16 tuổi. Nếu những bài thơ sonnet làm vào những năm trước 1595, khi Shakespeare cỡ ngoài 30 thì lúc đó Herbert mới cỡ tuổi 15. Và dù cho gia đình Herbert có ngắm nghé tìm vợ có nhiều tiền cho Herbert thì sự liên hệ giữa Herbert và Shakespeare vào thời điểm đó cũng không đủ thân thiết để ông có thể làm một loạt bài thơ ca tụng thiếu niên nhỏ tuổi này và khuyến khích chuyện lập gia đình.
Tuy nhiên đến năm Herbert 20 tuổi (1600) thì Herbert có mối tình với một người đàn bà mang tên Mary Fitton (mà có giả thuyết cho rằng người đàn bà này là mẫu hình cho nhân vật Dark Lady của ông). Cuộc đời tình cảm của vị bá tước này rất sóng gió và liên hệ đến nhiều người đàn bà khác nhau, nên nếu Shakespeare đã dùng vị bá tước Pembroke này để làm nhân vật đàn ông trẻ thứ hai trong thơ sonnet của ông thì cũng không có chi lạ.

Shakespeare là một nhà viết kịch nổi tiếng trên toàn thế giới, ông đã viết sonnet xen kẽ với kịch bản trong thời gian từ 1592 đến 1598 (28-34 tuổi). Nếu thơ ông có mang những nhân vật giả tưởng, và ông đặt ông vào vị trí người thơ trong những bài sonnet đó thì tưởng cũng không lấy gì làm ngạc nhiên quá đáng.
     Trong tập 154 bài sonnets, một số lớn (1-126) là những bài thơ nói với một người đàn ông trẻ mà nhà thơ có một liên hệ tình cảm sâu xa. Mười bẩy bài thơ đầu tiên nhà thơ cố gắng thuyết phục người đàn ông trẻ này nên lấy vợ và có con, viện dẫn đứa trẻ con trai sinh đẹp sẽ giống bố làm bố trở nên bất tử với thời gian. Những bài còn lại phân tích những lúc đẹp tuyệt vời và những lúc không hay trong mối liên hệ với ngôn ngữ gợi cảm, sự thôi thúc khôn nguôi. Phần còn lại (127-154) trừ hai bài chót, nói với một người đàn bà không có tông tích, chỉ được biết như là một Dark Lady, với những ám ảnh kỳ lạ. Hai bài kết thúc (153-154) là bản dịch hay phỏng theo huyền thoại về Cupid, đuợc mang vào tập sonnet, mục đích vẫn còn là nghi vấn, có người cho rằng đó chỉ là một cách mà nhà xuất bản đã mang vào theo chiếu lệ.

Tham khảo

Brooke, Tucker. Shakespeare of Stratford. New Haven: Yale UP, 1926.
Burgess, Anthony. Shakespeare. London: Jonathan Cape, 1970.
Kay, Dennis. Shakespeare. New York: William Morrow, Inc., 1992.
Levi, Peter. The Life and Times of William Shakespeare. London: Macmillan, 1988.
Neilson, Francis. Shakespeare and the Tempest. New Hampshire: Richard C. Smith Inc., 1956.
Rowse, A.L. Shakespeare the Man. London: Macmillan, 1973.

Sóng Việt Đàm Giang
 May 27, 2019


Friday, June 7, 2019

Italy.Venice1.PiazzoSanMarco.SVDG


Du lịch Italy
Venice (Venezia)

Sóng Việt Đàm Giang
Phần 1


Tiếp tục cuộc hành trình, chúng tôi được xe bus đưa đến Venice sau khi đi qua chiếc cầu Liberta (Ponta della Liberta). Du khách đến thăm viếng Venice có thể mướn phòng khách sạn tại Mestre một tỉnh nhỏ gần Venice, rồi đi xe điện hay xe bus qua cầu Liberta để đến bến vaporetta; hay ở ngay tại Venice. Sự giao thông công cộng tại Venice chỉ toàn dùng đường nước qua các kênh. Có lần chúng tôi ở khách sạn trên đảo Venice ngay tại trạm chót vaporetti của San Marco, có lần chúng  tôi ở tại khách sạn tại Mestre trên đất liền. Cả hai lần đều đi theo đoàn du lịch. Đền Venice, cả đoàn dùng phương tiện di chuyển bằng vaporetti một loại tàu máy bus trên kênh để đi tới bến tại Piazza San Marco để thăm thành phố. Ngồi trên water taxi chạy dọc trên Grand Canal, hai bên bờ là nhà nhờ và nhiều toà nhà kiến trúc rất đẹp mắt.

Hình internet

Venice hay Venezia (từ của người Veneti cổ) có nghĩa là tình yêu. Vì thế Venice đuợc mang tên là “Thành phố Tình Yêu”, và còn được nhắc đến như là thành phố nổi trên nước, thành phố của những cây cầu, thành phố của mặt nạ hóa trang, v.v…
Venice thiết lập trên 118 đảo nhỏ nằm trong một lagoon lớn. Hệ thống giao thông là kênh nước (122 kênh nước), và cầu (400 cầu). Grand Canal là trục giao thông chính.
 (Thành phố này tùy thuộc vào du khách làm mức lợi tức chính, cho nên phí tổn tại Venice thứ gì cũng cao hơn nơi khác, hầu hết lợi tức thu thập từ du khách được dùng để bảo trì thành phố.)

Thời ngày xưa (từ thế kỷ thứ 9), Venice theo chính thể cộng hoà, đứng đầu là vị Tổng-trấn thành Venice (Doge), và thành phố được điều hành bởi hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị này có rất nhiều quyền hành, có tài nguyên thu thập rất lớn do chiến thắng và chiếm đoạt từ những quốc gia xa ngoài biển. Thịnh vượng đổ vào Venice đã làm thành phố này có dư sức xây dựng được nhiều nhà thờ, dinh thự nguy nga lộng lẫy chứa tràn ngập những tranh họa và điêu khắc quý giá. Vào năm 1797, chính thể Cộng hòa bị đổ, Venice sau đó trở thành một đô thị của một hợp chủng Ý quốc vào năm 1866.

Điểm chính của thăm viếng Venice là thăm những di tích tại quảng trường San Marco và vùng phụ cận.cùng chiêm ngưỡng hệ thống kênh nước có một không hai của Venice.

Piazzo San Marco
Công trường St Mark (Piazza San Marco) là một công trường/quảng trường rộng lớn nằm ngay trước thánh đường San Marco, giới hạn trong khoảng không gian dinh tổng trấn, thánh đường San Marco, toà nhà  đồng hồ,  những dinh thự đốc phủ Procuratie, toà tháp và toà nhà thư viện Marciana.

Quảng trường San Marco là quảng trường quan trọng nhất và nổi tiếng nhất của thành phố Venice,  dài 175 m, rộng 82 m. Piazza San Marco cùng với Piazza RomaPiazza Rialto là ba quảng trường trong thành phố Venice được gọi là piazza. Các quảng trường khác của Venice được gọi là campi.

Từ bến đậu của vaporetto, water taxi trạm San Marco đi lên, theo ngược chiều kim đồng hồ là Dinh Tổng trấn Palazzo Ducale, rồi cổng đi ra vào dinh tổng trấn Porta della Carta, Đại thánh đường San Marco (Basilica Di San Marco), tháp đồng hồ (Torre dell'Orologio), dinh đốc phủ Procuratie Vecchie, cánh nhà Napoléon của Procuratie, dinh Procuratie Nouve, tháp chuông (Campanile) và Biblioteca Marciana, một trong những thư viện lớn nhất của Ý. Chúng ta cũng nhìn thấy cây cầu Liberta, góc phía trên bên trái tấm hình, nối Venice với đất liền Italy.

Toàn diện quảng trường San Marco (hình internet)
               
  



Photo SVĐG

Từ quảng trường San Marco nhìn ra một quảng trường nhỏ, quảng trường nhỏ Piazzetta dei Leoncini có 2 cột cao: Cột Thánh Mark (Marco) và cột Thánh Theodore (Torado). Hai cột này này được chở tới Venice từ Constantinople và dựng lên vào thế kỷ thứ 12; cột bên phải ở trên đỉnh là tượng sao chép San Theodore tay cầm giáo và tay cầm khiên, hai chân đứng trên lưng một con cá sấu tượng trưng cho con rồng đã bị giết, và là người trụ trì Venice trước San Marco (bản tượng nguyên thủy nằm trong Doge’s Palace); đỉnh cột thứ hai bên trái (gần dinh tổng trấn) là tượng sư tử bằng đồng có cánh, tượng trưng cho St. Mark/Venice.  
Dinh tổng trấn (Palazza Ducale)
  


                            Palazza Ducale. Thần Justice trên dinh tổng trấn và trên gần ngọn tòa tháp.
                          Photo SVDG                               

Dinh tổng trấn Palazzo Ducale là một kỳ công của kiến trúc Gothic, phía ngoài mặt tiền của Dinh Ducale chạy dọc theo bờ sông hoàn tất vào năm 1419. Lúc ban đầu cửa vào nằm mặt tiền nhìn ra phá, sau cửa chính vào Dinh là Porta della Carta, nằm ở mặt Piazza San Marco. Hành lang bên ngoài dinh dọc theo công trường kiến trúc với những vòng cung nhọn Gothic xây cất rất tỉ mỉ. Dinh Palazza Ducale nối liền nhà thờ San Marco ở phía đông với Piazza San Marco. Đây là nơi họp hành của Hội đồng quản trị thành phố, là nơi Tổng trấn ở, có Tòa án, có trung tâm dịch vụ dân sự, có nhà tù.
Sala del Maggior Consiglio. Tintoretto, Paradise, 1587-90. Venice, Italy.

 Chúng tôi được hướng dẫn đi thăm và nghe giải thích qua hệ thống audio từng lầu, từng phòng của dinh. Phần trên của các bức tường và đặc biệt là trần nhà được trang trí rất tráng lệ. Việc trang trí phần khung phía dưới trần nhà rất được coi trọng, thường là tranh vẽ của những nhà nghệ sĩ dẫn đầu trong Venezia mà chủ đề chính là ca ngợi thành phố.   Phòng The sala del Maggior Consiglio (Phòng Đại hội đồng) là phòng lớn nhất trải dài 54m và rộng hầu hết lầu một của dinh, nơi này có thể chứa được 2,600 người từ các nơi đến tham dự. Trên tường chung quanh có hình vẽ của 76 tổng trấn đầu tiên.
 Chiếm toàn bộ bức tường phía sau là bức tranh "Thiên đường" của Jacopo Tintoretto  (1588-1589)). Tranh này được vẽ sau khi vụ hỏa hoạn năm 1577 đã đốt cháy các bức tranh trước đó của Bellini, Carpaccio và Tizian. Căn phòng này rất sáng vì có cửa mở trông ra phía ngoài để ánh sáng và không khí tràn vào phòng. Từ cửa sổ chúng tôi có thể nhìn bao quát kênh lớn và những đảo nhỏ nằm gần kênh.
 Các phòng đi xem gồm phòng lớn La Sala della Mappe vẽ bản đồ thế giới biết đến ở thế kỷ thứ 16; phòng đợi Anticollegio; phòng La sala dell Senato đón đại sứ các nơi đến thăm viếng; phòng nào cũng đầy tranh của các họa sĩ nổi tiếng của Ý, v.v…
  Chúng tôi cũng thấy những căn phòng như phòng tra tấn, phòng tạm giam chứa tù nhân. Hành lang dẫn tù nhân từ nhà giam bên dinh tổng trấn đến nhà tù thành phố đi ngang qua một cái cầu bắc ngang kênh nước ở lầu hai mang tên cầu Bridge of Sighs (Cầu Than thở). Qua lời người tourguide thì tù nhân nhìn được ánh sáng và thành phố một lần cuối khi đi ngang qua cây cầu này trước khi bị tống vào nhà tù, vì cầu có kiến trúc với nhiều cửa sổ nhỏ. Cũng theo lời người tourguide địa phương và sách thì nhà tù ở Doge’s Palace là nơi đã giam giữ nhiều nhân vật nổi tiếng vào những thời điểm đó. Hai nhân vật quen thuộc được nhắc đến là Giacoma Casanova và Galileo Galilei.
 
         
           Bridge of Sighs. Ponta della Paglia.  Bên phải là Doge’s Palace, bên trái là nhà tù

 Casanova (1725-1798), sinh trưởng ở Venice, được biết đến như là một nhân vật đào hoa số một của Âu châu. Theo tự chuyện “The history of my life” thì Casanova đã có liên hệ tình dục với 122 thiếu nữ, hay phụ nữ. Casanova ngoài ra còn được coi như một chiến sĩ, một gián điệp, một nhà ngoại giao, nhà văn, và một người thích mạo hiểm. Vì nhiều lý do mà Casanova bị bắt, xử tội và giam ở nhà tù ở Doge’s Palace, nhưng Casanova đã tìm cách trốn thoát và là người đầu tiên trốn thoát ra được khỏi nhà tù này một thời gian bị giam giữ rất ngắn sau đó, vào năm 1756.
Galileo Galilei (1564-1642) sinh trưởng ở Pisa, khi còn trẻ đã bị cha ép buộc theo học y khoa, nhưng ông không thích và sau đó bỏ sang ngành toán học và khoa học. Ông Galilei là một nhà vật lý học, toán học gia, nhà thiên văn, và cũng là một triết gia. Galilei có công hoàn chỉnh ống kính thiên văn, và có công lớn với ngành khoa học. Ông đã một thời bị giam ở nhà tù nổi tiếng ở dinh tổng trấn do thất sủng với giáo hội vì ủng hộ lý thuyết của Copernicus. Ông cũng là người không lấy vợ nhưng sống với một người đàn bà và có ba người con.

Về kiến trúc thì dinh Tổng trấn là một công trình xây dựng đồ sộ của kiến trúc sư Filippo Calendario với nhiều sảnh đường rộng lớn. Dinh hiện tại phần lớn được xây dựng qua hai đợt như có thể nhìn thấy ở mặt ngoài phía nhìn ra phá. Hai cửa sổ bên phải thấp hơn các cửa sổ còn lại. Chúng được xây trong đợt đầu (đầu thế kỷ 14), khi dãy nhà bên phải được kiến tạo mà từ đó chiếc Cầu than thở dẫn vào trại giam ở phía bên kia kênh. Cánh nhà bên trái của dinh được xây từ giữa thế kỷ 14 sau khi Filippo Calendario bị treo cổ chết với tội phản nghịch (năm 1355), đến giữa thế kỷ 15 (1450).
Mặc dù đã trải qua ba lần bị cháy trong thế kỷ 15 và 16, dinh tổng trấn bao giờ cũng được tái xây dựng lại theo phiên bản cũ. Tuy nhiên bên trong các phòng lại được trang bị theo thời gian tu bổ.

   



Cửa Carta
Ở mặt nhìn ra quảng trường nhỏ (piazzetta) từ góc ngoài phía tây của dinh  đi hướng về Thánh đường San Marco, tại cột vòng cung thứ bẩy là điểm cho thấy phần dinh này đã được xây cất vào cỡ 1340, và những phần tiếp theo đã được cất thêm vào thời điểm 1424. Vì các cột mới hơn này được xây rập theo các cột cũ nên không thấy khác lạ. Tuy nhiên ở cột thứ bẩy thì có ghi lại dấu bằng một tượng khắc nổi hình tròn tượng trưng cho thần Justice của Venice (Justice/ Justitia thần thoại  La Mã tượng trưng công bằng và pháp lý với gươm bên tay phải, tay trái tì lên bản giấy cuộn, hai bên có hai đầu sư tử.  Và ngay trên bên phải của cột này là một balcony nhỏ. Đây nguyên là nơi tuyên án xử tội những kẻ bất lương hay phạm tội chính trị với quốc gia Ý thời đó.
Dinh tổng trấn nối liền với bên cạnh Thánh đường San Marco bằng một cửa ra vào dinh mang tên cửa Carta (Porta della Carta xây năm 1438). Trên tận cùng cửa này là tượng Justice, phía dưới là tổng trấn Francisco Foscari quỳ trước sư tử có cánh (St Mark). Hai bên là bốn tượng, tượng trưng cho Temperance, Fortitude, Prudence vàCharity.

Qua cửa Carta là sân trong dinh tổng trấn.
Các công trình kiến trúc tại sân trong có nguồn gốc khoảng đầu thế kỷ 16. Mặt ngoài của cánh phía đông là một công trình mới của thế kỷ 15 theo phong cách Phục Hưng. Một cầu thang có tên Scala dei giganti dẫn từ sân trong lên tầng trên nơi tổng trấn cư ngụ. Cầu thang mang tên này là do có hai bức tượng to lớn mô tả thần Mars và Neptune trong thần thoại La Mã do Jacopo Sansovino sáng tác năm1567. Cạnh nơi này là hòm thư đặc biệt Bocca di Leone đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Venezia. Đây là hòm thư dành để tố cáo như tấm bảng ghi chú. Nếu muốn tường trình việc gì bất lợi cho một người khác và có hai nhân chứng thì người ta chỉ cần ném một tin nhắn vào miệng của tấm mặt nạ này và hội đồng hành chính thành phố sẽ điều tra về chuyện ấy.




Sân trong dinh tổng trấn với 2 giếng nước màu đen và thềm thang lớn


Đại thềm bậc thang với tượng Mars và Neptune.
Thùnh thư tố cáo Leon.

Còn tiếp…