Du Lịch Italy
Vatican
Sóng Việt Đàm Giang biên soạn
Thành phố Vatican nằm
trong thành phố Rome. Phần bài viết này chỉ nói về Vatican.
Vatican
Vatican, một bang hay thành phố
hoàn toàn riêng biệt nằm trong thành phố Rome, là
quốc gia có diện tích nhỏ nhất thế giới. Diện tích cả nước là .17 sq mi hay .44
sq km, nằm trên vùng đất cao. Vatican tọa lạc phía tây bắc Rome, thủ đô của Ý, và
được bao bọc bởi hệ thống tường thành cao kiên cố được xây từ năm 800, cùng có
camera an ninh rải kín. Dân số cỡ dưới 1,000 người.
Năm 1929, chính phủ Italy đã ký với Giáo hoàng điều ước Ratlam, thừa nhận
Vatican là một quốc gia có chủ quyền. Tuy diện tích nhỏ nhưng bộ máy hành chánh
của Vatican rất hoàn hảo, có quân đội bảo vệ do Thụy Sĩ tổ chức, có hệ thống bưu
chính và ngân hàng riêng. Tem do Vatican phát hành có thể lưu hành và sử dụng tại
Italy. Tuy nhiên, Vatican không có các ngành công nghiệp, cũng như không có khách
sạn, nhà hàng, nhà hát, hay trường học; khí đốt, điện, nước và các mặt hàng
tiêu dùng đều do quốc gia Italy cung cấp.
Bản đồ Vatican
Swiss guards
Tài liệu cho biết, bên trong tường thành gồm 61 công
trình kiến trúc từ nhà thờ, nhà nguyện, cung điện, thư viện, ngân hàng, bưu
điện, toà nhà chính quyền, trung tâm truyền thông, đường phố, công viên, các
đài phun nước và sân bay trực thăng. Hầu hết các mái vòm, toà tháp, hành lang,
nhà nguyện với trần nhà và tường đều được tô điểm bằng các bức hoạ, tác phẩm
điêu khắc.
Sau khi Đức
Giáo Hoàng John Paul II chết vào ngày 2 April 2005, thì vào ngày 19 April,
2005, Hồng Y Giáo chủ người Đức Joseph Ratzinger được chọn làm Đức giáo Hoàng mới
với tên Giáo Hoàng là Benedict XVI. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI từ chức ngày
28, February, năm 2013, và ngày 13 March 2013, Hồng Y Giáo chủ Francis lên nối
chức.
Những địa điểm
được biết đến trong quốc gia Vatican đáng kể nhất là công trường thánh Peter
(St.Peter’s Square), Đại Giáo đường thánh Peter (St. Peter’s Basilica), Cung điện
Vatican, Viện bảo tàng Vatican. Bức tường Vatican là ranh giới với Rome, Italy.
Viện Bảo
tàng Vatican (Musei Vaticani)
Cửa vào Viện Bảo tàng Vatican
Có thể
nói Musei Vaticani là kho tàng tồn trữ nghệ thuật
dồi dào nhất trên thế giới. Nhà nguyện Sistine với tác phẩm của nhiều
họa sĩ, điêu khắc tên tuổi, như Bernini, Sandro Botticelli và nhất là tác phẩm của Michelangelo và bốn phòng tranh vẽ trên tường (frescos) của Raphael cùng
với những nghệ thuật đẹp nhất thuộc Roman, Etruscan, Greek, Egyptian, Assyrian
đều hiện diện ở đây. Với cả ngàn phòng để thăm viếng thì trọn hai ngày cũng chưa
đủ, tuy nhiên có bản đồ hướng dẫn theo màu để thăm viếng những phòng chính. Những
phòng/nhà bảo tàng này nằm ngay cạnh Đại Giáo đường St Peter.
Viện bảo tàng Vatican nằm
ở phía bắc Đại Giáo đường Peter, là bảo tàng lâu đời và nổi tiếng trên thế giới,
với diện tích 55.000 m2. Bảo tàng là một phần của Dinh Vatican (Vatican Palace), nơi cư ngụ của
Đức Giáo Hoàng từ năm 1377, bảo tàng có ước chừng 1,400 phòng, gồm 12 nhà trưng bày và 5 dãy hành lang, được
gọi là “Phòng trưng bày nghệ thuật và bảo tàng Vatican”.
Các phòng
trưng bày nghệ thuật. Bảo tàng Vatican.
Bảo tàng Gregorian-Etruscan chứa những cổ vật từ thế kỷ thứ 9 đến 1 trước Công nguyên
Bảo tàng Gregorian-Etruscan chứa những cổ vật từ thế kỷ thứ 9 đến 1 trước Công nguyên
Bảo tàng Chiaramonti trưng bày khoảng một ngàn tác phẩm
điêu khắc, chạm khắc Hy Lạp - La Mã, cùng nhiều bức tượng Ai Cập do Augustus
đưa về Rome.
ghi chú. 1: tượng Hercules trong phòng Tròn (Round hall) nhìn từ phòng Chữ Thập Hy-lạp (Greek Cross hall). 2: tượng thần Artemis trong phòng Candelabra. 3: phòng Pio-Clementino.
ghi chú. 1: tượng Hercules trong phòng Tròn (Round hall) nhìn từ phòng Chữ Thập Hy-lạp (Greek Cross hall). 2: tượng thần Artemis trong phòng Candelabra. 3: phòng Pio-Clementino.
Bảo tàng Pio Clementino. Do Đức Giáo hoàngClement XIV (1769-1774) và Pius VI (1775-1799) tài trợ, với rất nhiều phòng sưu tầm theo mọi chủ đề. Tại phòng thú vật tập trung các cổ vật với nhiều loại đá khác nhau đôi khi có màu đá gần giống như màu da lông thú.
Đặc điểm trong sân tám cạnh có nhiều bồn tắm cổ, có tượng Laocoon nổi tiếng, xuất
xứ từ Tòa nhà Vàng của Nero, tượng Thần Apollo trong thần thoại Hy Lạp với vẻ
đẹp cổ điển lý tưởng (thường gọi là tượng Apollo Belvedere. Và trong phòng Nhà Thơ (Hall of Muse) có bức tượng Thân người Belvedere/Belvedere Torso đuợc xem như có
nhiều ảnh hưởng đến khuynh hướng điêu khắc của Michelangelo.
Laocoon và hai con trai.
Laocoon và hai con trai.
Laocoon và hai con trai. Hình hiện tại và hình cũ trước năm 1957
Nhóm
tượng Laocoon được đào thấy ở Rome vào năm 1506 và được đặt ở Vatican từ ngày đó đến giờ.
Đây là nhóm tượng bằng cẩm thạch, phiên bản của bản chính bằng đồng của 1 điêu khắc gia Hy Lạp làm năm 140 TrCN. Nhóm tượng lớn cỡ người thật, được ba thợ điêu khắc tên Agesander, Polydorus, và Athenodorus, người thành Rhodes khắc họa cảnh một thầy tu của thành Troy có tên là Laocoon cùng hai con trai của ông - Antiphantes và Thymbraeus- bị bóp nghẹt bởi rắn biển của thần biển Neptune. Chuyện tích kể là khi nhìn thấy con ngựa gỗ trước cửa thành, dân chúng Troy hò reo kéo ngựa vào thành. Chỉ có Laocoon là nhận ra âm mưu của Ulyses, phóng ngọn lao của ông vào hông ngựa làm vang lên tiếng leng keng của vũ khí giáp trụ quân Hy Lạp nấp bên trong. Nhưng dân chúng đã bị Athena làm mù quáng, không nghe lời ông. Để trừ khử ông, thần Athena sai 2 con rắn thần từ dưới biển lên quấn chết cả ông lẫn 2 đứa con.
Người ta đã tìm thấy nhóm tượng này ngày 13/1/1506 trong di tích Domus Aurea (Dinh thự Vàng) của hòang đế Neros. Nhóm tượng được làm từ 4 khối đá cẩm thạch ghép lại, mô tả sự chống cự tuyệt vọng của 3 cha con khi bị rắn thần quấn chết. Từ gương mặt, cử động của thân người đến sự căng cứng của các cơ bắp, tất cả đều rất hòa hợp, mẫu mực. Khi được phát hiện, phần tay phải của Laocoon bị mất (kể cả một cánh tay của cả hai người con). Đã có nhiều tranh cãi giữa các nghệ sĩ, điêu khắc gia xem tư thế của cánh tay phải của Lacoon sẽ như thế nào. Michealangelo khi đó cho rằng cánh tay phải sẽ gập lại (như sau này người ta tìm thấy). Các nghệ sĩ khác thì cho rằng nó phải kéo dài ra (như hình chụp). Giáo hoàng khi đó mới thành lập hội đồng nghệ thuật để quyết định và chỉ định Raphael làm trọng tài. Cuối cùng đồ án tay phải giơ lên cao được chọn, cánh tay mới được gắn vào và trưng bày từ năm 1540. Vào năm 1906 một nhà khảo cổ học đã tìm thấy phần cánh tay bị mất của 1 bức tượng (tượng người cha) và gửi đến Vatican. Và hơn 50 năm sau đó mãi tới năm 1957, Vatican mới quyết định đó chính là 1 phần tay phải của Laocoon và gỡ phần tay đắp thêm trước đây ra vào năm 1957. Và rồi sau đó phần tay của hai người con đã gắn vào cũng đã được gỡ bỏ vào những năm 1980s.
Belvedere Torso.
Đây là nhóm tượng bằng cẩm thạch, phiên bản của bản chính bằng đồng của 1 điêu khắc gia Hy Lạp làm năm 140 TrCN. Nhóm tượng lớn cỡ người thật, được ba thợ điêu khắc tên Agesander, Polydorus, và Athenodorus, người thành Rhodes khắc họa cảnh một thầy tu của thành Troy có tên là Laocoon cùng hai con trai của ông - Antiphantes và Thymbraeus- bị bóp nghẹt bởi rắn biển của thần biển Neptune. Chuyện tích kể là khi nhìn thấy con ngựa gỗ trước cửa thành, dân chúng Troy hò reo kéo ngựa vào thành. Chỉ có Laocoon là nhận ra âm mưu của Ulyses, phóng ngọn lao của ông vào hông ngựa làm vang lên tiếng leng keng của vũ khí giáp trụ quân Hy Lạp nấp bên trong. Nhưng dân chúng đã bị Athena làm mù quáng, không nghe lời ông. Để trừ khử ông, thần Athena sai 2 con rắn thần từ dưới biển lên quấn chết cả ông lẫn 2 đứa con.
Người ta đã tìm thấy nhóm tượng này ngày 13/1/1506 trong di tích Domus Aurea (Dinh thự Vàng) của hòang đế Neros. Nhóm tượng được làm từ 4 khối đá cẩm thạch ghép lại, mô tả sự chống cự tuyệt vọng của 3 cha con khi bị rắn thần quấn chết. Từ gương mặt, cử động của thân người đến sự căng cứng của các cơ bắp, tất cả đều rất hòa hợp, mẫu mực. Khi được phát hiện, phần tay phải của Laocoon bị mất (kể cả một cánh tay của cả hai người con). Đã có nhiều tranh cãi giữa các nghệ sĩ, điêu khắc gia xem tư thế của cánh tay phải của Lacoon sẽ như thế nào. Michealangelo khi đó cho rằng cánh tay phải sẽ gập lại (như sau này người ta tìm thấy). Các nghệ sĩ khác thì cho rằng nó phải kéo dài ra (như hình chụp). Giáo hoàng khi đó mới thành lập hội đồng nghệ thuật để quyết định và chỉ định Raphael làm trọng tài. Cuối cùng đồ án tay phải giơ lên cao được chọn, cánh tay mới được gắn vào và trưng bày từ năm 1540. Vào năm 1906 một nhà khảo cổ học đã tìm thấy phần cánh tay bị mất của 1 bức tượng (tượng người cha) và gửi đến Vatican. Và hơn 50 năm sau đó mãi tới năm 1957, Vatican mới quyết định đó chính là 1 phần tay phải của Laocoon và gỡ phần tay đắp thêm trước đây ra vào năm 1957. Và rồi sau đó phần tay của hai người con đã gắn vào cũng đã được gỡ bỏ vào những năm 1980s.
Belvedere Torso.
Belvedere Torso. Thân mình Belvedere.
Belvedere
Torso được tìm thấy ở Roma trong thời Phục hưng và người ta cho rằng tượng này đã truyền cảm hứng cho danh họa Michelangelo tạo
nên hình ảnh Adam trong bức tranh tường The Creation of Man ở nhà nguyện
Sistine.
Thân
mình Belvedere là một mảnh điêu khắc thân mình một người đàn ông, chiều cao
toàn điêu khắc 1.59m (5 ft 25/8 inches). Tác phẩm có chữ ký đề tên một nhà điêu
khắc người thành Athens là Apollonius,
và đã từ lâu được xem như là có từ thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên. Nhưng hiện
nay đã được cho rằng đây là một bản sao mà Apollonius đã
sao chép lại từ tác phẩm điêu khắc có từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Bức
tượng mô tả một người đàn ông ngồi trên bộ da của một động vật. Nhân vật được
mô tả trong bức tượng này hiện vẫn còn là nghi vấn. Một số chuyên gia cho rằng
đây là chân dung của Hercules hay
một số nhân vật thần thoại khác.
Tương truyền rằng, Michelangelo
ngưỡng mộ bức tượng này đến mức ông đã từ chối lời đề nghị của Giáo hoàng
Julius II, hoàn thiện tác phẩm điêu khắc bằng cách gắn tay, chân và gương mặt
cho bức tượng. Michelangelo cho rằng bức tượng quá đẹp và không nên thay đổi.
Belvedere Torso hiện là một trong số ít tác phẩm điêu khắc cổ đại vẫn được giữ
nguyên vẹn như từ khi khám phá ra.
Apollo Belvedere
Apollo Belvedere có thể là bản sao một điêu khắc từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Với phong cách quý phái và hình dạng đẹp, tượng Apollo Belvedere đã được gắn thêm vào phần cánh tay ngoài cho mường tượng là thần vừa bắn cung xong.
Apollo Belvedere (2012) Vatican Museums 1968
Căn phòng Rafael.
Năm 1508, Giáo hoàng Julius II Della Rovere giao cho Rafael Sanzio (khi ấy mới
có 25 tuổi, được Bramante giới thiệu) vẽ những bức tranh trên tường trong 4
gian phòng của mình ở tầng trên cùng. Kích thước 3 căn phòng của Giáo hoàng khá nhỏ, căn thứ tư thì lớn hơn nhiều. Người ta hay gọi chung tất cả là
"Căn phòng Rafael" (Raphael's Stanze).
Phòng triển lãm tranh Vatican: Giáo hoàng Pius XI ra lệnh xây
dựng nhà triển lãm này vào năm 1932 để trưng bày bộ sưu tập của Vatican có từ
năm 1800, dưới thời Giáo hoàng Pius VI. Tại đây, ta có thể tìm thấy những tác
phẩm xuất sắc nhất của Giotto, Cimabue, Beato Angelico, Melozzo da Forli,
Perugino, Titian, Domenichino, Caravaggio, Rafael và Leonardo da Vinci. Ngoài
ra, còn có gian giành riêng cho Nghệ thuật Hiện đại.
Bài viết này theo lộ trình hướng dẫn
của đoàn du lịch do người chủ đoàn và người hướng dẫn địa phương đảm nhiệm và cũng
coi như là một lộ trình mà hầu hết các đoàn du lịch đều theo. Đi theo đoàn có cái lợi là họ lo cho tất cả và
chúng ta không phải sắp hàng dài cả giờ để chờ mua vé, hay có vé rồi vẫn phải sắp
hàng chờ lâu. Lộ trình tóm tắt như sau.
Qua
cửa vào, đi thang lên tầng một nơi có sân thượng nhìn ra sân trong Pigna và
Belvedere; đi qua phòng Chiaramonti với thần La-mã; rồi đi thang lên lầu hai đến
bảo tàng Pio-Clementino với sân tám cạnh
có nhiều bồn tắm cổ và nhưng vách lõm chứa tượng Apollo Belvedere và Laocoon;
qua phòng Tượng; rồi phòng nhà Thơ có
Belvedere Torso; rồi phòng Tròn có chậu cẩm thạch đỏ vĩ đại đường kính 13m,
chung quanh phòng Tròn là 9 tượng trong
hốc lõm đặc biệt có tượng thần Hercules mạ đồng màu vàng. Qua phòng Tròn là phòng
Chữ Thập Hy-lạp với hai cỗ quan tài lớn
của Nữ hoàng hiển Thánh Helena và con gái Constantina, cửa có tượng Ai-cập, chính
giữa phòng là mosaic Athena. Sau đó là một hành lang dài phòng Thảm, phòng bản
đồ Ý, phòng Raphael và rồi đến nhà nguyện Sistine.
Nhà
nguyện Sistine (Cappella
Sistina).
Nhà nguyện
Sistine dài 40.9m và rộng 14m. Trần cao 13.4m ở từ sàn tầng chính của nhà nguyện.
Mái vòm thì phức tạp và có lẽ khi đuợc xây dựng đã không có mục đích để đáp ứng
những tranh hoàng bích họa. Tường chia làm ba tầng với 6 cửa sổ ở trên cao nhất.
Giữa các cửa sổ là những phần thòng xuống (pendentives) để chịu đựng trần nhà vòm.
Giữa các pendentives này có những khung tam giác gắn vào vòm trần trên những cửa
sổ.
Nhà nguyện
Sistine, đặt tên theo Giáo Hoàng Sixtus IV, được tài trợ bởi Đức Giáo Hoàng
Julius II, và được dựng lên vào cỡ giữa năm 1473 đến 1481, là nhà thờ nhỏ của
các Giáo hoàng. Nhà thờ này nổi tiếng vì bức họa “Sự phán xét cuối cùng”
(The Last Judgement) của
Michelangelo.
Hành lang bản đồ nước Ý
Hành lang bản đồ và hành lang với những bức tranh tường của một số họa sĩ như Pietro Perugino, Sandro
Botticelli, Domenico Ghirlandaio miêu tả cuộc đời của Moses và Jesus, dẫn đến
phòng có bức tranh “Sự phán xét cuối cùng” của Michelangelo, tác
phẩm trên trần của Michelangelo.
Trần
Sistine Chapel (1508-1512) là công trình vĩ đại của Michelangelo Buonarotti .
Bức “Sáng thế kỷ” có diện tích 300 m2,
được ghép từ 9 bức tranh với nội dung miêu tả lại những câu chuyện trong Kinh
thánh. Trong bức tranh có hơn
300 nhân vật với đường nét sắc sảo, dáng vẻ sống động có thần. Michelangelo đã
mất 4 năm để vẽ bức tranh này.
Trên
những khung vòm vươn lên giữa năm cửa sổ ở mỗi bên nguyện đường là
hình ảnh các tiên tri Cựu Ước, nhữg người đã nói với dân Do Thái
về Đấng Cứu Thế sẽ đến, xen kẽ với hình ảnh các nữ tiên tri ngoại
giáo, những kẻ theo truyền tụng cổ xưa đã tiên báo cho người ngoại đạo
biết sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Michelangelo đã vẽ họ ngồi đắm
mình trong suy tư, đọc, viết, tranh luận, hay như đang lắng nghe một tiếng nói
từ nội tâm. Giữa những nhân vật này, ngay giữa vòm trần, ông vẽ câu chuyện Sáng
Thế kỷ và truyện Noah. Chen giữa những câu
chuyện này bằng rất nhiều hình ảnh khác, mang những câu chuyện khác.
Bố cục có hơn 300 nhân vật và có
chín tình tiết trung tâm từ Sách Khải huyền , được chia thành ba nhóm: nhóm thứ
nhất là Sự sáng tạo Thế giới Thiên đàng và
Trái đất của Chúa; nhóm thứ hai là Chúa
tạo ra người đàn ông và đàn bà đầu tiên Adam và Eve và sự mất ân huệ của Chúa do bất tuân lệnh nên bị đuổi
ra khỏi vườn Eden; và cuối cùng, nhóm thứ ba là sự cầu khẩn của Loài người
và đặc biệt là của gia đình Noah. Những hình này không tuyệt đối theo thứ tự thời
gian. Trên các vòm tam giác đỡ mái được vẽ mười hai người đàn ông và phụ nữ đã
tiên đoán sự xuất hiện của Chúa Jesus. Họ gồm bảy nhà tiên tri Israel và năm
phụ nữ tiên tri của Thế giới Cổ đại.
Trong số những bức hoạ nổi tiếng nhất trên trần có Chúa tạo ra Adam, Adam và Eve trong Vườn địa đàng, Đại hồng thủy, nhà tiên tri Isaiah và Bà đồng Cumaean. Quanh các
cửa sổ được vẽ các tổ tiên của Chúa Jesus. Bức họa The Creation of Adam là bức họa nổi tiếng
nhất thế giới trong lịch sử hội họa cho thấy một hình ảnh thánh tượng Bàn tay của
Chúa (Hand of God) mang đến sự sống cho Adam.
Bản thân Chúa bay trong không gian, được đỡ
nâng bởi các Thiên Thần, đang chuyển dần lại gần Adam đang ngồi trên trái đất, từ một phía khác, mình quấn
một tấm áo choàng rộng bung ra như một cánh buồm trong gió. Lúc Chúa đưa bàn
tay ra, dù không chạm vào ngón tay của Adam, ta như thấy con người đầu tiên trỗi
dậy, như từ trong một giấc ngủ và nhìn vào khuôn mặt chan chứa tình yêu
thương của Đấng Tạo hóa. Cách Michelangelo sắp xếp để cái “chạm tay” Thần thánh
trở thành trung tâm và điểm hội tụ của bức tranh, và cách ông làm ta nhận ra sự
toàn năng qua vẻ nhàn hạ và uy lực của cử chỉ sáng tạo này thật tuyệt vời trong
nghệ thuật hội họa.
Chín cảnh
miêu tả chuyện Sáng Thế Kỷ trong Thánh kinh (Book
of Genesis) bắt đầu từ bàn thờ hướng ra cửa chính gồm: The Separation of Light and Darkness , The Creation of
the Sun, Moon and Earth, The Separation of Land and Water, The Creation of Adam,
The Creation of Eve, The Temptation and Expulsion, The Sacrifice of Noah, The
Great Flood, The Drunkenness of Noah.
Con Rắn Đồng. The Brazen Serpent.
Trong một khung tam giác góc ngay trên
bàn thờ là một cảnh mang tên “Con rắn bằng đồng”.
[Trích trong bài viết Những
biểu tượng của ngành Y do Trịnh Nguyễn Đàm Giang biên soạn: Biểu tượng con rắn bằng đồng có tên Nehushtan đã
được nhắc đến trong Thánh kinh. Trong Bộ sách những con số (số 21:6) của Thánh
kinh có viết rằng người Do thái (Israelites) than phiền với Moses và Chúa về
hoàn cảnh tuyệt vọng của họ (Tại sao ngài lại mang chúng tôi...để chết trong
trong hoang dã? Vì chẳng có thức ăn và nước uống...."(21:5).
Sự than phiền này làm
Chúa nổi giận nên sai rắn hung dữ tấn công người Do thái. Nhiều người chết quá
làm người Do thái phải chạy đến Moses và cầu khẩn Chúa tha tội cho họ. Chúa
nguôi giận, bèn sai Moses làm một cây gậy có một con rắn bằng đồng cuốn quanh.
Những người nào đã bị rắn cắn chỉ cần nhìn vào cây gậy này là tự nhiên khỏi
bệnh. Có thể cũng vì lý do này mà Nehushtan đã mang ảnh hưởng đến cho cây gậy
Asclepius và được dùng sau đó như một biểu tượng cho y khoa và ngành y.
Năm 1508, dưới
sự tài trợ của Pope Julius II, Michelangelo Buonarroti đã vẽ trên trần toà Sistine
Chapel một cảnh minh họa thiên tai rắn với dân Do thái và sự thành hình của rắn
bằng đồng.]
Bà tiên tri người Cumaean. The Cumaean Sibyl. Bà đã chỉ dẫn cho Aeneas, trong hành trình
xuống thế giới dưới đất để thăm cha. Michelangelo vẽ nhà tiên tri nữ này có
khuôn mặt cằn cỗi, già nua, có thân hình thật to lớn, có cánh tay trái thật rắn
chắc (tượng trưng cho lòng tin tuyệt đối vào sự khôn ngoan và sức mạnh của Giáo
hội Cơ đốc La mã). Bà có hai cuốn sách Cựu và Tân Ước. Nhà tiên tri cúi đầu đọc
một cuốn, không để ý đến cái gì khác ngoài quyển sách của mình. Một người theo
bà cầm cuốn thứ hai. Michelangelo không vẽ trang phục các nhân vật tiên tri
giống như trong lời kể thần thoại. Ông chỉ quan tâm đến giá trị tượng trưng của
họ - một giá trị nhân văn - những con người được soi sáng về tinh thần.
Đây
là tình tiết trong tác phẩm sử thi Aeneis bằng tiếng Latin của nhà thơ Virgil,
sáng tác năm 29-19 TCN, kể về cuộc phiêu lưu của Aeneas, một người thành Troy,
trong hành trình đến Ý, nơi ông trở thành tổ tiên của người Roma.
Và sau cùng là bức “Sự phán xét cuối cùng” được vẽ trong 6
năm, cao 20 m, rộng 10m, là bức họa lớn nhất thế giới. Trong bức họa có hơn 200
nhân vật.
Michelangelo vẽ bức họa tổng
hợp “Sự phán xét cuối cùng” khoảng từ năm 1536 đến 1651 do Đức
Giáo Hoàng Clement VII đặt hàng, đặt trọng tâm vào hình ảnh của chúa
Christ, ghi lại khi mà Sự phán xét cuối cùng được tuyên bố. Sự bình thản chịu đựng
như đòi hỏi sự chú ý và làm dịu sự rối loạn đang diễn ra ở chung quanh. Bức họa
bắt đầu di chuyển chậm miêu tả tất cả những nhân vật liên quan.
Toàn diện phòng nguyện Sistine
Bên cạnh Đức Chúa với thân hình đầy
đặn như của một người trên trái đất, đứng uy nghiêm dang tay phải lên cao như đang suy nghĩ để ra phán xét cuối cùng, là
đức mẹ Virgin hòa hợp trong vị thế ngồi nghiêng đầu nhìn xuống trong tình trạng như đầu hàng với
hai cánh tay khép lại bên mình. Những vị thánh và những người được lựa chọn để
lên Thiên đường, được vẽ chung quanh Chúa và Đức mẹ, cũng đang lo âu chờ đợi
lời phán quyết. Vài vị thánh có thể nhận được ra ngay như thánh Peter với hai
chìa khoá, thánh Laurence với giá sắt (gridiron), St Bartholomew với da của chính ông trong tay
trái mà từ trước đến giờ đã được giải thích là chân dung tự vẽ của chính
Michelangelo (Michelangelo ví mình như tấm da người bị lột, một con người bị
vắt kiệt sức lực), St Catherine of Alexandria với cogwheel, và St Sebastian
đang quỳ gối cầm cung. Ở chính giữa phần dưới là thiên thần của Apocalypse đang
đánh thức người chết bằng tiếng còi. Ở bên trái là những thân người đang trổi
dậy khi thân họ đang đi vào thiên đàng (Resurrection of the flesh), bên phải có
thiên thần và quỷ đang tranh đấu để mang người chịu hình phạt vào điạ ngục.
Ở phía bên phải tận cùng của bức họa trên tường
vĩ đại này có hai nhân vật không thuộc kinh sử, đó là Charon của Dante đang trên
thuyền với mái chèo và quỷ dẫn những người chịu hình phạt đến trước Minos quan
tòa của thế giới dưới mặt đất có thân với rắn cuốn chung quanh.Sự khỏa thân trong bức họa của Michelangelo đã làm nhiều chức sắc đương thời khó chịu (Hồng Y Giáo Chủ Carafa),và nhất là vị chủ lễ của Đức Giáo Hoàng (Biagio De Cesena), và ông đã đòi bỏ bức tường này ra khỏi Sistine Chapel. Để tỏ sự bất bình, Michelangelo đã vẽ Minos có khuôn mặt tựa như Cesena.
Sau khi Michelangelo qua đời, bộ phận sinh dục nam sau đó được vẽ che đi qua tài của họa sĩ Daniele Da Volterra. Cũng vì việc làm này mà Volterra đuợc gán cho cái tên ”họa sĩ vẽ đai quần” (breeches- painter).
Hiện nay bức họa này đã
được tu bổ, sửa chữa, để mang lại màu sắc trong sáng nguyên thủy của ban đầu,
trừ một góc trên cùng bên phải, được giữ lại mọi người so sánh. Những hình ảnh
khỏa thân ban đầu sau một thời gian bị che đậy nay phần lớn cũng đã được lấy bỏ đi để
mang lại nguyên thủy như Michelangelo vẽ.
Căn phòng
nhỏ phía sau phòng hình có một cánh cửa chứa lò đốt và một hệ thống ống dẫn
khói ra ngoài. Đó là nơi để toà thánh chính thức thông báo khi bầu Đức Giáo
Hoàng mới. Khi bầu được thì họ sẽ đốt cho khói trắng tỏa ra báo tin cả thành phố
là đã chọn được Đức Giáo Hoàng mới, nếu khói đen bốc ra thì có nghĩa là chưa có
sự thống nhất ý kiến và cần phải bầu lại.
Vài sự kiện
về nhà nguyện Sistine.
Nhà nguyện
Sistine mang tên người đã tài trợ /đặt làm là Đức Giáo Hoàng (ĐGH) Sixtus IV.
Chữ Sixtus viết tiếng Ý là Sisto.
Nhà nguyện Sistine bề ngoài trông rất
bình thường chỉ giống như là một khối hình chữ nhật lớn bằng gạch không trang
trí gì hết. Nó không có cửa lớn riêng để vào mà chỉ có những lối vào qua những
cánh cửa của Dinh Đức Giáo Hoàng
Mặc dù Nhà nguyện Sistine nổi tiếng
với những bức họa (frescos) vẽ trên tường, trên trần nhà của Micelangelo, nhưng
trước đó cũng đã có frescos rất nổi tiếng của Botticelli vẽ dọc theo hai bức tường
của hành lang dài của nhà nguyện: một bên kể chuyện gia đình Moses, một bên kể
chuyện về Chúa.
ĐGH bảo trợ tài chính cho Michelangelo năm 1508
là Julius II, cháu (nephew) của Sixtus IV. Chữ nephew của Anh ngữ lấy từ chữ
nipote của Ý có nghĩa là “ cháu” hiểu theo nghĩa lạm quyền của giáo hoàng để
thiên vị người trong gia đình. Ngày xưa, thường thì chữ “cháu” của ĐGH được hiểu
là con trai của họ.
Những phòng
ngoài cho phép chụp hình, riêng phòng nhà nguyện Sistine thì tuyệt đối không đuợc
chụp hình, không đuợc ăn uống và tuyệt đối phải im lặng.
Rời Nhà nguyện Sistine qua một cầu thang xoáy rất
đẹp của Momo (rập theo thang xoáy của
Bramante dành riêng cho Đức Giáo Hoàng ở cạnh Dinh Giáo Hoàng), chúng ta sẽ ra cổng dẫn sang Đại Thánh Đường St. Peter.còn tiếp...
Sóng Việt Đàm Giang
No comments:
Post a Comment