Sóng Việt Đàm Giang
Bài viết về Buenos Aires, Argentina là bài viết thứ ba trong loạt bài Du Lịch Nam Mỹ, sau phần du lịch Rio de Janeiro và thăm thác Iguazu.
Buenos Aires là thủ đô và là thành phố lớn nhất và cảng lớn nhất của Argentina. Thành phố nằm trong vùng pampass, bên bờ phía nam của Rio de la Plata, duyên hải đông nam của Nam Mỹ. Dân số cỡ 3 triệu người.Đây là một thành phố nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc đặc sắc, sinh hoạt văn hóa năng động, và có nhịp sống về đêm vô cùng hào hứng.
Buenos Aires chia ra từng khu vực quanh Plaza de Mayo và Microcenter là vùng Plaza San Martin và Retiro, rồi đến Recoleta và Palermo ở phía tây bắc, San Telmo và La Boca ở phía nam.
Thời gian dành cho Buenos Aires là bốn ngày ba đêm. Trong ba ngày thì một ngày dành cho chuyến du lịch ra khỏi thành phố thăm viếng một trang trại nuôi bò, trừu (Argentinean Estancia), một ngày đi thăm viếng hầu hết những vùng chung quanh Plaza de Mayo, và một ngày tự do muốn thăm đâu tùy ý.
Thăm viếng thành phố Buenos Aires
Buenos
Aires có Đại Lộ 9 Tháng 7 Ave 9 de
Julio, đây là đại lộ rộng nhất thế giới.
Tên đại lộ được đặt để kỷ niệm Ngày Độc Lập 9 Tháng 7 năm 1816. Đại lộ này có
chiều rộng bề ngang 140 m (460ft), có 7 lanes
mỗi chiều. Hai bên lại có thêm hai con đường có hai lanes mỗi đường nữa,
vị chi tổng cộng 18 lanes.
Quảng
trường chính nổi tiếng của Buenos Aires là Quảng Trường Tháng 5 (Plaza de Mayo), nơi được coi như tượng trưng cho trái tim của Buenos Aires. Ngày xưa nó
là khu chợ trời, nơi gặp gỡ của đủ mọi
thành phần dân thành phố. Hiện nay nó là nơi tập trung của cơ quan hành chánh, dịch vụ thương mại,
và văn hóa âm nhạc.
Tòa nhà Casa Rosada, hay dinh Tổng thống, đuợc mang danh Nhà Hồng,
do mặt tiền rất sáng mầu hồng do sơn phết với một hỗn hợp whitewash và oxblood.
Tòa nhà được xây cất vào giữa 1862-1885. Nổi tiếng là nơi bà Eva Peron đã đứng
trên balcony và chào đón dân chúng.
Nhà bank quốc gia, do nhà kiến trúc Bustillo thiết kế và xây dựng
năm 1943. Vào thời đó nó là nhà băng có mái vòm lớn nhất Latin America và là
toà nhà đầu tiên có thang máy escalator.
Nhà thờ Metropolitana, Cetedral Metropolitana,
là nhà thờ Công giáo chính ở thủ đô Argentina. Vào năm 1580, nhà sáng lập ra
Buenos Aires Juan de Garay đã chỉ định một mảnh đất làm nơi đặt địa điểm nhà thờ
lớn đầu tiên của thành phố. Ngày nay mảnh đất đó chính là vị trí nhà thờ. Công
trình được các kiến trúc sư Châu Âu xây dựng, pha trộn các kiến trúc thế kỷ 18
và 19 và hoàn tất vào năm 1836. Mặt tiền nhà thờ có 12 cây cột Corinthian/Hy Lạp,
đại diện cho 12 tông đồ. Phía trên dãy cột khắc một bức tranh tường miêu tả lại
giây phút đoàn tụ của Jacob với con trai Joseph . Phía trong nhà thờ có những lối
đi uốn vòm cao, các ngôi mộ, bức bích họa và đồ vật trang trí. Nơi đây có lăng
mộ Tướng Jose de San Martín bằng đá cẩm thạch. Ông là vị tướng lừng danh trong
lịch sử Argentina, đã chỉ huy cuộc cách mạng chống lại chế độ cầm quyền Tây Ban
Nha ở Argentina và các quốc gia Nam Mỹ khác.
Bút tháp Mayo kỷ niệm Cách mạng tháng Năm 1810.
Tòa Đô Chính
Cabildo
de Buenos Aires là một trong những tòa nhà chính phủ quan trọng nhất trong
thành phố. Tòa thị chính trong thời kỳ 1748-1821 là nơi họp mặt của hội đồng
hành chính, và là nơi diễn ra các cuộc họp quan trọng dẫn đến một Argentina Độc
lập khỏi Tây Ban Nha. Nơi đây có nét kiến trúc độc đáo của Tây Ban Nha và có chứa
những di tích lịch sử liên quan đến cuộc Cách mạng Tháng 5 năm 1810 của
Argentina. Tòa nhà xây cất từ năm 1608 đã
bị phá bỏ một phần, lấy chỗ xây dựng hai con phố bên cạnh, và đã được trùng
tu lại vào năm 1940 để duy trì các nét đặc trưng như tòa tháp, hành lang dẫn ra
sân trong với cửa vòng cung, cửa ra vào và cửa sổ.
Nhà hát lớn Colon
Nhà hát Colon
(Teatro Colón hay Columbus Theatre) là nhà hát Opera lớn nhất thủ đô Buenos
Aires và Argentina. Hệ thống âm thanh ở đây được xếp hạng một trong 5 hệ thống
hay nhất thế giới.
Nhà hát Colon được xây vào năm 1908, tại địa điểm của một nhà hát cũ hơn được xây ở đây vào năm 1857. Hội trường hình móng ngựa, cao bẩy tầng, có 2,487 chỗ ngồi, chứa thêm được 1,000 ngưới đứng, sân khấu rộng 20m, cao 15m, sâu 20m. Nhà hát mới được khai trương vào ngày 25 tháng 5 năm 1908 với vở Opera Aida của soạn giả người Ý tên Giuseppe Verdi.
Nhà hát Colon được xây vào năm 1908, tại địa điểm của một nhà hát cũ hơn được xây ở đây vào năm 1857. Hội trường hình móng ngựa, cao bẩy tầng, có 2,487 chỗ ngồi, chứa thêm được 1,000 ngưới đứng, sân khấu rộng 20m, cao 15m, sâu 20m. Nhà hát mới được khai trương vào ngày 25 tháng 5 năm 1908 với vở Opera Aida của soạn giả người Ý tên Giuseppe Verdi.
Photo internet
A Tango on Florida Street
San Telmo
Cách khu
Microcenter không xa là khu San Telmo.
San Telmo là khu vực (barrio) nằm cách Plaza de Mayo
6 con phố, có những con phố lát gạch, nối liền phía bắc là Microcenter, phía
nam là La Boca, phía đông là Puerto
Maldero, và phíc tây là Avenida 9 de Julio. Đây là barrio cũ nhất của Buernos
Aires hiện diện từ thế kỷ thứ 17 là nơi những người phu khuân vác làm việc tại
bến tàu và thợ xây cất sinh sống. Khu này rất nghèo, và bệnh dịch hạch xẩy ra vào
cuối thế kỷ thứ 19 với hơn 10,000 tử vong đã làm dân khu này bỏ đi nơi khác
sinh sống. Và sau đó những di dân từ Âu châu đổ qua mưu sinh và tụ tập ở nơi này.
San Telmo bắt đầu lôi cuốn giới nghệ sĩ tứ phương và dần dần là điểm nóng cho
tango. Khu San Telmo rất nhộn nhịp và vui. Nghệ sĩ trình diễn đủ loại nhưng đáng
kể nhất phải là vũ điệu tango do các cặp nghệ sĩ biểu diễn tại plaza Dorrego.
A Tango on the street
Khu này có những nơi đáng xem như nhà thờ Cơ đốc
Nga, nhà thờ Basilica of San Francisco, và
đặc biệt vì lý do méo mó nghề nghiệp người viết không thể không đặt chân
vào Dược phòng cổ nổi tiếng của San Telmo, Farmacia Estralla Homeopattia.
Pharmacy La Estralla (Defense 201. Monserrat) là một
phần của lịch sử quốc gia. Bác sĩ Bernardino Rivadavia là người sáng lập ra dược
phòng đầu tiên trong thành phố Buenos Aires vào năm 1834. Và rồi nhiều dược phòng
khác cũng bắt đầu xuất hiện. Đến năm 1885 thì Farmacia La Estralla đuợc khánh
thành tại địa điểm hiện tại với tất cả huy hoàng lộng lẫy trong dược phòng như
kính Murano, kệ hàng bằng gỗ walnut, mặt quầy hàng bằng đá cẩm thạch Carrara, và
trần nhà là tác phẩm của họa sĩ Barberis
miêu tả những tượng trưng của “sức khỏe”, “bệnh tật”, và “thuốc men” (health,
disease, pharmacopeia). Phía ngoài cửa vào cũng giữ nguyên những công trình cổ
xưa với khung sắt đen trang hoàng. Hiện nay tiệm thuốc vẫn mở cửa và tiếp tục bán
thuốc, dược thảo, nước hoa, v.v…
La
Boca
Khu La Boca nằm ngay cạnh San Telmo về phíc nam. Khu
này nổi tiếng với du khách vì có những căn
nhà sơn phết màu sắc rực rỡ khác nhau, với con phố đi bộ, với Caminito nơi mà
nghệ sĩ biểu diễn nhảy tango và bán đủ loại kỷ niệm về tango. Khu vực này chỉ dài
có vài blocks hầu như để cho du khách chiêm ngưỡng. Ngoài khỏi khu này thì là nơi
mưu sinh của dân nghèo và không mấy an ninh cho khách.
Caminito (có nghĩa là lối đi nho nhỏ) là một hành
lang hay gọi là bảo tàng ngoài phố, và là nơi có ý nghĩa cho âm nhạc Argentina và
là nơi nhà soạn nhạc Juan de Dios Filiberto đã có hứng tạo nên bản nhạc tango nổi
tiếng Caminito (phát hành ngày 26 tháng 11, 1926).
La
Recoleta
Rời khu San Telmo và La Boca, đi lên phía bắc của
khu Centro là khu Recoleta. Khu Recoleta là một khu rất đáng chú ý trong lịch sử
và kiến trúc ủa thành phố này, và đáng kể nhất chính là nghĩa trang Recoleta. Đây
cũng là khu được xem là có ảnh hưởng và khu có tư gia đắt giá nhất của thành phố
Buenos Aires.
La
Recoleta được biết đến là nơi an nghỉ cuối cùng của những người giàu có nhất và
nổi tiếng nhất Buenos Aires. Những lăng mộ đủ kiểu kiến trúc theo cổ điển,
Gothic, Baroque v.v…, nằm dọc theo những con đường lát đá của thành phố nhỏ
này. Nghĩa trang được xây dựng vào năm 1822 và có hơn 4.500 ngôi mộ. Hơn 90
ngôi mộ trong số này đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia và được
chính phủ Argentina bảo vệ. Các ngôi mộ đáng chú ý nhất bao gồm mộ của các tổng
thống Argentina, những người đoạt giải Nobel, và đệ nhất phu nhân nổi tiếng nhất
của Argentina, Eva Perón, còn được gọi là Evita.
Lối vào nghĩa trang với những cột trụ lớn và chạm khắc tinh xảo. Bước vào bên trong giống như đặt chân đến một thành phố khác. Những con đường chia nhánh ra khắp mọi hướng, cần theo bản đồ chỉ dẫn phát không tại phòng hành chính ở lối vào trước khi bắt đầu thăm viếng.
Mộ của bà Evita được chôn với năm thành viên khác trong gia đình. Ngôi mộ của họ không xa hoa như những ngôi mộ khác nhưng thường xuyên có những bó hoa tươi do khách ngưỡng mộ để lại.
Lối vào nghĩa trang với những cột trụ lớn và chạm khắc tinh xảo. Bước vào bên trong giống như đặt chân đến một thành phố khác. Những con đường chia nhánh ra khắp mọi hướng, cần theo bản đồ chỉ dẫn phát không tại phòng hành chính ở lối vào trước khi bắt đầu thăm viếng.
Mộ của bà Evita được chôn với năm thành viên khác trong gia đình. Ngôi mộ của họ không xa hoa như những ngôi mộ khác nhưng thường xuyên có những bó hoa tươi do khách ngưỡng mộ để lại.
Ngôi mộ của Liliana Crociati de Szaszak, là một trong những ngôi mộ độc đáo trong nghĩa trang với kiến trúc tân kỳ. Cô là một cô gái trẻ cùng người chồng vừa cưới đã chết trong trận núi tuyết Alpine lở ngày 26 tháng 2, 1970, khi họ đang đi hưởng tuần trăng mật. Những ngôi mộ của các tướng lĩnh quân đội với tượng bán thân ngoài cửa cũng rất đặc biệt.
Piazzolla Tango!
Và chắc chắn đi thăm
thành phố này thì phải có một buổi tối đi ăn và xem trình diễn Tango!
Nhà Piazzolla Tango nằm
trong khu Guemes Gallery. Từ parking vào nhà hát phải đi qua một hành lang dài
của trung tâm Guemes. Buổi ăn tối với thực đơn cổ truyền Argentina với
empanadas, ravioli, rượu vang, tráng miệng với bánh dừa.
Một chút Piazzola
Tango. Quán Piazzo Tango đặt theo tên của nhạc sĩ Astor Piazolla.
Astor Piazzolla (1921-1992)
xuất thân từ một gia đình người Ý nhập cư. Ông sinh ra tại vùng Mar del Plata,
nằm cách thủ đô Buenos Aires 400 km về phía nam. Năm lên ba, ông theo bố mẹ sang
thành phố New York sinh sống trong vòng hơn 10 năm. Trong gia đình, bố Astor
Piazzolla tuy không phải là một nghệ sĩ nhưng lại rất say mê điệu tango, cho
nên ông bố mới mua cho con trai một chiếc đàn phong cầm bandoneón, khi Astor mới
lên tám. Theo lời kể của chính tác giả, thì ông rất thất vọng khi nhận được chiếc
đàn phong cầm. Ông muốn có một chiếc kèn saxo, vì rất mê nhạc jazz chứ không hề
thích tango.
Vào năm 15 tuổi, Astor Piazzolla theo gia đình trở về Argentina
(1936). Sau khi học xong tú tài, ông thành lập ban nhạc đầu tiên tên là
Cuarteto Azul, bắt đầu đi tìm một cách diễn đạt mới trong cách chơi tango. Vào
năm 33 tuổi, ông nhận được một học bổng để sang Paris tu nghiệp trong vòng ba
năm.Thầy của ông lúc bấy giờ là nhạc sư nổi tiếng Nadia Boulanger. Ngoài việc dạy
nhạc lý, bà Nadia còn chỉ dẫn cho Astor Piazzolla cách định hình tất cả những
gì ông đã linh cảm trước kia trong những lúc mò mẫm sáng tác. Sau đó, khi trở về
Argentina, Astor Piazzolla sáng tạo ra thể loại Tango Nuevo, còn được gọi là
tango đương đại, nâng dòng nhạc này lên đến một tầm cao hơn còn không khô khan
khó hiểu.
Ông bắt đầu nổi tiếng từ giữa những năm 1960 trở đi.
Những người yêu
thích thể điệu tango truyền thống chê bai rằng, khi đưa đàn bass và ghi ta điện
vào trong dàn nhạc, và với biến tấu ngẫu hứng như nhạc jazz, thì dòng nhạc của
Piazzola không còn là nhạc tango nữa. Nhưng thật ra Astor Piazzola tuy phá cách
nhịp điệu, đập vỡ khuôn thước, nhưng ông vẫn giữ được cái hồn, cái cốt của
tango, và khi đặt lời cho điệu tango mới, Astor
Piazzola tìm cách cởi trói các ràng buộc của dòng nhạc truyền thống, thoát khỏi
những sao mòn gắn liền với vũ điệu tango.
No comments:
Post a Comment