Friday, July 10, 2020

Phạm Xuân Hy. Nào Ai Mạc Mặt. Chinh Phụ Ngâm.



Phạm Xuân Hy
Nào Ai Mạc Mặt.
Chinh Phụ Ngâm.

…nhận được thư của một người bạn, nhắc và hỏi lại hai chữ  "mạc mặt " trong Chinh Phụ Ngâm ở câu 99 và 100, là chữ Nôm hay chữ Hán, tại sao lại là vẽ mặt treo lên Lăng Yên Các?
Mạc  có phải nghĩa là vẽ không ?
Mấy câu hỏi khá lý thú và quyến rũ tôi.

A - Xuất xứ của chữ "mạc mặt"
Theo nguyên bản chữ Hán, trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, bản khắc Trường Thịnh Đường    khoảng năm 1910, người đọc thấy hai  như sau:
     
     
Chinh nhân mạo thùy đan thanh
Tử sĩ hồn thùy ai điếu
Đan thanh  , tức chu sa hay đan sa có mầu hồng, và thạch thanh một khóang chất có mầu xanh, là những nhan liệu ngày xưa người Trung Hoa thường dùng để vẽ trong nghệ thuật hội họa, nên có nghĩa là hội họa, là vẽ, là sử sách. 
Bản khắc Chinh Phụ Ngâm Trường Thịnh Đường, bên dưới phần nguyên bản chữ Hán, có phần dịch chữ nôm, và hai câu chữ Hán trên đây đã được dịch ra chữ nôm như sau :
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai vẽ mặt nào ai gọi hồn.

Như vậy, với bản khắc Trường Thịnh Đường, thì chữ "đan thanh"   " được dịch ra chữ nôm là "vẽ ". 
Nghĩa thật rõ ràng, không có gì cần bãi cãi thêm.
Tuy vậy, có một số bản nôm Chinh Phụ Ngâm khác, như các bản:
- Chinh Phụ Ngâm Khúc     của "Đại Học Thư Lâm      in ở bên Nhật, (Do giáo sư Nguyễn Đình Hòa tặng tôi)
-Tân San Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Từ Khúc         , do nhà Chính Trực Đường khắc năm Gia Long Thập Tứ Niên Cốc Nguyệt Cát Nhật, tức năm ất hợi 1815, sau khi Gia Long  lên ngôi hoàng đế được 14 năm (Bản này được giáo sư Lê Hữu Mục và Phạm Thị Nhung gọi là bản nôm Huế ).
-Chinh Phụ Ngâm Diễn Ca     , (Bản viết tay, không ghi ai viết, có nhiều chữ bị mất, chữ viết đá thảo, in trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Vân Bình Tôn Thất Lương dẫn giải và chú thich, do nhà xuất bản Tân Việt in lần thứ năm).
Thì hai câu thơ chữ Hán trên đây lại được dịch nôm như sau :
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.

Theo bản Tân San Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Từ Khúc và bản "Đại Học Thư Lâm, cụm từ "mạc mặt" được viết như dưới đây :
Trong khi đó, bản nôm viết tay thì cụm từ "mạc mặt" lại được viết :
Cụm từ "mạc mặt" trên đây, được các tác giả giải thích ra quốc ngữ là "vẽ mặt".
Ngoài ra, đồng với quan điểm giải thích này, trong bản "Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo" in năm 1953, một tác phẩm giá trị và nghiên cứu công phu của giáo sư Hoàng Xuân Hãn, cũng giải thích "mạc" có nghĩa là "vẽ", nhưng tác giả lại chỉ in có bản chữ Hán, mà thiếu bản nôm mà tác giả đã xử dùng để phiên âm ra quốc ngữ, thành thử người đọc không được biết chữ "mạc" viết cách nào .
Nay nhân gặp dip, tôi mới có cơ hội tìm hiểu thêm ý nghĩa của  ba chữ  ,  , và  trên đây.

B-Tìm hiểu nghĩa của chữ  (đọc mạc).
Mạc vừa là chữ Hán vừa là chữ Nôm.
a - Mạc , là chữ Hán.
Trước hết chữ mạc   là chữ Hán. Cuốn Cồ Hán Ngữ Tự Điển của nhà Thương Vụ Ấn Thư Qúan, giải thich chữ mạc  thuộc lọai hình thanh tự, lấy hình phù là "thủy " biểu thị những gì liên quan đến nước, hoặc như nước chẩy, còn  thanh phù là "mạc ".
Từ điển Từ Nguyên chỉ ra cách đọc chữ  theo lối phiên thiết  là "mộ các thiết, đạc vận"
Mạc  có các nghĩa:
1-Nghĩa gốc của chữ "mạc " là sa mạc , tức vùng đất có lưu sa, cát bay theo gió thổi, ở miền bắc Trung Quốc. Như Mạc Bắc là vùng sa mạc ở cao nguyên Mông Cổ
2-Mạc  còn có nghĩa là mênh mông bao la . Như quảng mạc.
3-Mạc  còn có nghĩa là lãnh đạm, không chú ý. Như trong thành ngữ "mạc bất quan tâm    ", hình dung thái độ lãnh đạm đối với người hay sự vật, không hề chú tâm đến một chút nào.
Chữ "mạc " kết hợp với các chữ Hán khác tạo ra các cụm từ như:
lãnh mạc  
hoang mạc  
đạm mạc  
quảng mạc  
lạc mạc  
mạc bắc  
mạc bạc  

b - Mạc , là chữ Nôm.
Theo học giả Đào Duy Anh, trong các cách thức cấu tạo chữ Nôm, có cách được gọi là giả tá, tức mượn âm chữ Hán, đọc theo Hán Việt, để biểu hiện những từ Nôm đồng âm mà không đồng nghĩa.
1-Như chữ "tốt " chữ Hán (âm Hán Việt) có nghĩa là binh lính, nôm thì lại có nghĩa là "tốt lành".
Cũng theo cách giả tá này, chữ Nôm mượn âm Hán của hai chữ mạc  và mạc (đọc theo âm Hán Việt) biểu thị chữ Việt đồng âm mà không đồng nghĩa, như trong  những  cụm từ : làng mạc, trận mạc, họ mạc, mộc mạc, mặt mạc, miễu mạc... Chữ "mạc" trong các cụm từ nôm này vô thực nghĩa, chỉ đóng vai trò của một tiếp vĩ ngữ để nhấn mạnh âm đứng đằng trước nó, mà không mang một ý nghĩa nào cả. .
2-Sau nữa, chữ "mạc " đọc trại đi, để đọc là "mác", biểu thị âm  "mác ", trong cụm từ  "man mác  " , như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu :
       
Hoa trôi man mác biết là về đâu".
Đúng ra trôi trong trôi chẩy phải được viết bằng hai chữ thủy +lôi=+". Còn trôi  có nghĩa là cá trôi, chúng tôi mượn tạm để viết 
Cụm từ man mác được Đào Duy Anh giải thích là  tản mạn, hình dung có nhiều vật gì rải rác trên một khỏang rộng, không tập trung).

C-Tìm hiểu nghĩa của chữ "" (đọc mạc)
Cũng như chữ "mạc  ", chữ "mạc  " vừa là Hán vừa là Nôm.
a - Mạc  là chữ Hán.
Theo Thực Dụng Trung Y Tự Điển       ấn hành năm 2001, thì chữ mạc " " là một chữ hội ý. Giáp cốt văn ghi chữ này  thành ba phần. Phần trên cùng là chữ "thảo  ", trung gian là chữ "nhật ", bên dưới  lại là chữ  "thảo  ", sau thay đổi dạng  thành chữ "đại ", mô tả   trạng thái mặt trời lặn giữa đám cỏ cây.
Sách "Thuyết Văn Giải Tự" của Hứa Thận, đời Đông Hán, giải nghĩa chữ mạc  là "日且   nhật thả minh dã - Nghiã là ngày sắp tối, tức lúc mặt trời sắp lặn, vì thế, sau viết thành , "đọc mộ".
Về cách đọc, Từ Nguyên chỉ cách đọc theo lối phiên thiết là :"mộ các thiết, đạc vận     "
Ngoài nghĩa gốc ở trên, chữ "mạc " còn có một số nghĩa khác như dưới đây:
-Không ai, không có gì, dùng làm phó từ. Như "Mạc danh kỳ diệu    -Không ai có thể nói được chỗ kỳ diệu ấy"
-Có nghĩa là không, dùng trong câu phủ định. Như "Aí mạc năng trợ     -Muốn giúp mà không giúp được.
-Có nghĩa là có lẽ là, ước chừng, biểu thị sự suy đóan. Như mạc phi  
 -Có nghĩa là họ Mạc.
-Có nghĩa là rất. Như "mạc đại  -rất lớn"
-Có nghĩa là đừng, chớ, dùng trong câu khuyên ngăn, cấm đóan. Như "Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ        Đừng có lo sau này không có người tri kỷ.
-Thông dụng với chữ mạc 
-Thông dụng như chữ  (đọc mô), có nghĩa là mưu mô.
b-Mạc , là chữ Nôm.
Cũng như trường hợp chư "mạc ", Nôm mượn âm Hán Việt của chữ mạc này để ghi âm "mạc" trong các cụm từ như :
- làng mạc   (J. L Taberd)
- miễu mạc  (J. L Taberd)
- họ mạc   ...( J. L Tarberd)
-trận mạc  
Ngoài ra mạc  được đọc trại ra thành "mác" để biểu thị âm "mác" trong các cụm từ
 "chếch mác  , "có  nghĩa là tản mạn , buồn bực quá chừng (Pigneau de Béhaine)
 "man mác   " có nghĩa là tản mạn, có nhiều lo toan (Pigneau de Béhaine).

D-Tìm hiểu nghĩa của chữ (đọc mặt)
Chữ "mặt "là một âm thuần Việt, không phải là một chữ Hán, được cấu tạo theo lối hình thanh, bởi hai thành tố chữ Hán : =   - ( mạt + diện = mặt. )
1-Chữ Mặt , theo các từ điển Việt Nam giải thích thì là phần trước của đầu, và gồm mắt, mũi, mồm   Như trong Truyện Kiều có câu :
Mặt mơ tưởng mặt lòng ngao ngán lòng
2-Nhưng người ta cũng dùng chữ mặt để chỉ những vật gì có hình dáng tròn và phẳng, như :
mặt trăng 
mặt trời 
mặt đất  
mặt hồ  .
3-Chỉ chiều hướng, như
- mặt phải mặt trái    .
4-Mặt còn là lượng từ, dùng để đếm. Như:
- Chị tôi có bốn mặt con với anh ấy "
5-Tên một lọai cây gọi là :
-cây mặt giăng 
-cây mặt giời
6-Theo Vũ Văn Kính thì "mặt", theo giả tá nôm còn đọc là mặc.

E- "Mạc" có nghĩa là "vẽ".
Sau hơn một tuần lễ "ngao du" trong đống thư tịch hán nôm và những tự điển rách nát, cũ kỹ của mình, nhưng vì khả năng hạn hẹp, và tài liệu ít ỏi, tôi chỉ lượm lặt được một số nghĩa có liên quan đến hai chữ  và  mà tôi đã mạn phép trình trên đây, chỉ tiếc rằng đã không tìm thêm được câu văn nào có chữ "mạc  "với nghĩa là vẽ, để  giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi quyến rũ đã đặt ra.
Dầu vậy, không thể vì thế mà khẳng định rằng hai chữ "mạc  và " không có nghĩa là "vẽ" được. 
Thật ra, trong cuốn "Gíup đọc Nôm và Hán Việt", của Linh Mục Trần Văn Kiệm, một tác phẩm công phu và giá trị, người ta có thể tìm thấy hai chữ "mạc" , viết là :
                     và 
được tác giả giải thích là vẽ, và nêu ra thí dụ :
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.
Tiếc rằng tác giả  không chua rõ chữ , và , đã được trích từ  bản nôm Chinh Phụ Ngâm năm nào. 
Hai chữ mạc này cũng đều là chữ Hán đọc theo âm Hán Việt.
Chữ  mạc , có nghĩa là sự khổ sở, bệnh hoạn. Còn chữ mạc , là một chữ thuộc lọai đa âm tự, và ta quen đọc là mạt, có nghĩa xoa bôi, xóa bỏ, như mạt phấn  , mạt tường  .
Mà theo cách cấu tạo giả tá về chữ nôm, người ta có thể mượn âm Hán Việt của một chữ Hán, để tạo một chữ nôm đồng âm, nhưng vì không có qui định thống nhất  phải dùng chữ  Hán nào để có một chữ nôm tương ứng. Thành thử xẩy ra tình trạng có một chữ nôm, cùng một âm, cùng một nghĩa, có thể được viết bằng nhiều chữ Hán khác nhau. Như trường hợp chữ "mạc" là vẽ vậy, khiến cho sau này hậu thế gặp nhiều khó khăn khi tìm nghĩa của một chữ nôm cổ đã không dùng nữa.
Đó cũng là trường hợp của cụm từ quen đọc là "cổ lục" ở câu thứ 7 của Truyện Kiều:
       
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
Thật ra, trong các bản nôm Truyện Kiều được lưu hành rộng rãi như các bản:
1-Liễu Văn Đường
2-Văn Nguyên Đường.
3-Quảng Văn Đường
4-Phúc Văn Đường
5-Abel des Michels.
6-Thúy Kiều Truyện Tường Chú.
7-Kim Vân Kiều Chú.

Thì tám chữ trong câu 7 trên đây không hề có chữ nào đọc là cổ  cả, còn hai chữ người ta quen đọc là "cổ lục"  này đều khắc bằng hai chữ Hán là "cố lục  ".
Chữ  âm Hán Việt đọc là cố (cố định, cố thể), nôm đọc là có (có vợ có con, có khi có lúc).
Chữ  âm Hán Việt đọc là lục (mục lục, sao lục)
Theo bản Kiều phiên âm lần đầu tiên ra quốc ngữ năm 1875 của học giả Trương Vĩnh Ký thì câu số 7 này đã được phiên âm là :
Phong tình có lúc còn truyền sử xanh
Đọc là "có lúc", sẽ hợp với văn cảnh hơn. (Truỵên "phong tình" tức truyện trai gái yêu đương, cũng có lúc được ghi vào sử xanh).
Âm "lúc" của tiếng Việt, thường được viết theo cách giả tá bằng chữ Hán là lục , thì cũng có thể viết bằng một chữ Hán khác cũng âm là lục .
Tuy vậy, tôi không thể khẳng định rằng "có lúc" là hoàn toàn đúng, và "cổ lục" là hòan toàn sai, vì gần đây có hai bản nôm Truyện Kiều viết tay mới được tìm thấy, một của Lâm Nọa Phu (chép năm 1870) và một của Tăng Hữu Ứng(chép năm 1874), cho biết là hai chữ quen đọc đó viết là "cổ lục  ". 
Như thế, đứng về văn bản học, bản chép tay của Lâm Nọa Phu ra đời sau bản Liễu Văn Đường –Nghệ An bốn năm, chúng ta sẽ phải trọn lựa văn bản nào trong hai văn bản trên đây để làm tiêu chuẩn nghiên cứu ? 
Vậy xin ghi ra đây để tồn nghi.
Ngoài ra, trong các từ điển của Gustave Hue, của Eugène Gouin, ...người ta có thể tìm được  những chữ "mạc" với nghĩa là "peindre" (vẽ), nhưng viết một cách khác.
Gustave Hue thì viết là :
 Còn Eugène Gouin là :
Cả hai chữ trên đây đều là chữ Hán, âm Hán Việt đọc là "mạo" có nghĩa là diện mạo  . Tôi không rõ hai chữ mạo trên đây  tại sao lại được đọc là mạc? Phải chăng những chữ này cũng thuộc lọai đa âm tự và có một âm là mạc chăng.

D- Mạc mặt và Lăng Yên Các.
Mạc mặt có nghĩa là vẽ hình mặt.
Ở  nguyên bản chữ Hán của Chinh Phụ Ngâm câu 447 ghi :
      
Lăng yên các hề Tần Thúc Bảo
Lăng Yên Các là tên một điện các nằm trong Thái Cực Cung ở kinh đô Trường An đời Đường. Sách "Cựu Đường Thư-Thái Tông Kỷ", ghi rằng vào tháng hai năm Trinh Quan thập thất niên, tức năm 643, Đường Thái Tông Lý Thế Dân, người đã có công tạo dựng lên một đế quốc cường thịnh, rộng lớn bậc nhất lịch sử Trung Quốc vào thế kỷ thứ 6, tức vương triều nhà Đường, từng sai họa sĩ tài danh đương thời là Dương Lập Bổn vẽ hình hai mươi bốn vị công thần theo phò Lý Thế Dân, như Trưởng Tôn Vô Kỵ, Đỗ Như Hối, Ngụy Trưng, Lý Tĩnh, Tần Thúc Bảo, Trình Giảo Kim...đem treo ở Lăng Yên Các để ghi nhớ công lao của họ.
Tần Thúc Bảo là một tướng lãnh đời sơ Đường, tên thật là Quỳnh, tự là Thúc Bảo, người Tề Châu Lịch Thành. Cuối đời nhà Tùy, Tần Thúc Bảo theo Trương Tu Đà trấn áp các cuội nổi dậy của Lý Mật và Lư Minh Nguỵêt. Sau khi Trương Tu Đà chết, Tần Thúc Bảo lại theo về với Lý Mật, được Mật dùng làm Trướng Nội Phiêu Kỵ. Sau khi Lý Mật bị bại trận, Tần Thúc Bảo bị Vương Thế Sung bắt, ít lâu sau thì hàng Đường, theo Lý Thế Dân, được Lý Thế Dân dùng làm Mã Quân Tổng Qủan, đánh bại được Tống Kim Cương, Vương Thế Sung, rồi trấn áp đuợc các cuộc nổi dậy của Đậu Kiến Đức và Lưu Hắc Đạt, làm quan đến chức Tả Võ Vệ Đại Tướng Quân.
Tần Thúc Bảo còn được người Tầu tôn thờ là Môn Thần, thần canh giữ cửa, khu tà và trừ ác. Người ta thường thấy tượng của ông cùng với tượng của Uất Trì Kính Đức đứng  trấn giữ ở ngoài cửa đền đài, lầu các và thường được mệnh danh là "Môn Thần Nhị Tướng Quân". Nguyên có giai thoại về Tần Thúc Bảo, kể rằng:
"Đường Thái Tôn Lý Thế Dân, ban đêm không ngủ được, thường nghe tiếng gạch ngói ném trên nóc nhà, tiếng ma quỉ gào thét, thì lấy làm sợ, mới đem truyện hỏi các đại thần, thì Tần Thúc Bảo xuất ban tâu:
-Thần bình sinh giết người như cắt cỏ, thây tích nhiều như kiến, lẽ nào lại sợ ma quỉ? Xin bệ hạ cho thần cùng với Kính Đức mang khí giới đứng canh ngoài cửa. 
Đường Thái Tôn chuẩn tấu. Qủa nhiên ban đêm không còn nghe tiếng quỉ hú nữa. Đường Thái Tôn lấy làm mừng , bèn sai hoạ công vẽ hình Tần Thúc Bảo và Uất Trì Cung treo ở hai bên tả hữu ngoài cửa cung điện. Và đích thân Đường Thái Tôn viết hai câu đối ca tụng:
       
       
Song đồng đả xuất Đường thế giới
Đơn tiên sanh chú Lý Càn khôn.
Riêng tôi, hồi bé ham đọc truyện Tầu, trong chiến tranh thường trốn mẹ tôi sang làng Lương Đường, quê cụ Phạm Quỳnh, mượn người quen cuốn Thuyết Đường in bằng giấy gió về đọc.
Trong truyện kể Tần Thúc Bảo có xước hiệu là "Trại Chuyên Chư", nhà nghèo, mồ côi cha, làm chân bổ khoái ở huyện Lịch Thành, có ngón đòn Kim Gỉan tổ truyền thần sầu quỷ khốc, nặng một trăm ba mươi cân, lợi hại không thua gì ngón hồi mã thương của La Thành, lấy đầu địch nhân nhanh như lấy khăn trong túi. Tần Thúc Bảo từng sáp huyết ăn thề kết giao với bọn lục lâm hào kiệt, trừ gian diệt ác, cứu khốn phò nguy, như Trình Giảo Kim, Từ Mậu Công, Lý Tích, Ngụy Trưng rồi cùng họ phò giúp Lý Thế Dân dựng lên nghiệp đế, lưu danh muôn thuở. Nhiều chi tiết trong truỵên tôi đã quên, nhưng còn nhớ mãi cảnh tác giả mô tả  Tần Thúc Bảo khảng khái, không sợ liên lụy, chuốc rượu tế sống người bạn kết nghĩa là Đan Hùng Tín, để đưa tiễn Tín lên đọan đầu đài, mà trong tuồng Tàu thường có vở gọi là "Tống Tửu Đan Hùng Tín".
20-9-2006
Phạm Xuân Hy.

No comments: