Trịnh Nguyễn Ðàm Giang
Biên Soạn - Diễn Dịch Thơ
Thơ Chữ Hán Nguyễn Du
Bắc
Hành Tạp Lục - Phần I
Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần II
Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần III
*****
Mục Lục
Lời Mở Đầu
Sách Tham Khảo Chính
Nguyễn
Du: Tiểu Sử, Thân Thế, Văn Nghiệp
Bắc Hành
Tạp Lục- Phần I
Bắc Hành Tạp Lục- Phần
II
Bắc Hành Tạp Lục- Phần III
*****
Lời Mở Đầu
Bắc Hành Tạp Lục là một trong ba tập thơ gồm 249 bài viết bằng chữ Hán của thi hào Nguyễn Du, đó là Thanh Hiên, Nam Trung, và Bắc Hành. Thanh Hiên Thi Tậpgồm 78 bài, Nam Trung Tạp Ngâm gồm 40 bài, và Bắc Hành Tạp Lục gồm 131 bài.
Bài biên khảo này gồm 60 bài thơ đầu (Phần I) của tập Bắc Hành Tạp Lục, đánh số theo thứ tự giống như những tài liệu tham khảo, bắt đầu từ bài số 119 đến bài 179.
Bắc Hành Tạp Lục ghi lại những địa danh, hình ảnh, nhân vật, cảnh vật, và hoàn cảnh mà Nguyễn Du đã quan sát, cùng những hoài niệm riêng tư cảm nhận trong hành trình sứ bộ sang Trung Hoa vào những năm 1813-1814 dưới triều Gia Long. Tập thơ nầy cho thấy ở Nguyễn Du một khả năng quan sát chi tiết trung thực, kiến thức thâm sâu về địa lý và lịch sử Trung Hoa cũng như một hệ thống suy tư đặc thù sâu sắc về nhân sinh
Trong
việc biên soạn tuyển tập này tác giả xin ghi nhận
sự đóng góp của một số thân hữu. Tôi xin có
lời cảm ơn Dược sĩ Lê Văn Nhân, Tiến sĩ Nguyễn Tuấn
Dũng và Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức đã tặng thêm sách
tham khảo, và đặc biệt là sự đóng góp then chốt
của Tiến sĩ Thomas D. Lê đã giúp hoàn chỉnh bản thảo
cùng trình bày kỹ thuật để mang bài viết lên mạng
lưới vi tính.
Trịnh
Nguyễn Đàm Giang – Sóng Việt
2 November 2003
*****
Sách Tham Khảo Chính
Truyện Cụ Nguyễn Du của Lê Thướ c- Phan Sĩ Bằng (1924)
Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh (1959)
Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Lê Thước -Trương Chính (1965)
192 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du của Bùi Hạnh Cẩn (1996)
Nguyễn Du: Thơ Chữ Hán của Chi Ðiền Hoàng Duy Từ (1986)
249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du của Duy Phi (2003)
Nguyễn
Du: Tác Phẩm Và Lịch Sủ Văn Bản của Nguyễn
Thạch Giang-Trương Chính (2000)
*****
Nguyễn Du: Tiểu Sử, Thân Thế, Văn Nghiệp
Nguyễn Du-Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766 (tức là ngày 23 tháng 11 năm Ất dậu), (vì Nguyễn Du sinh cuối năm ta Ất Dậu, đầu năm tây 1766 nên hầu hết tài liệu đều viết như ông sinh năm 1765) dưới triều Lê Cảnh Hưng; người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ Tĩnh.
Cha là nhị giáp Tiến sĩ, Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm, từng làm tới Tể Tướng triều Lê mạt; mẹ (Trần Thị Tần) là người vợ thứ ba, người Kinh Bắc; anh là Toản Quận Công Nguyễn Khản cũng làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều.
Khi Nguyễn Du lên mười thì cha chết, 13 tuổi mẹ chết. Vào năm 1778, ông phải về ở với Nguyễn Khản, con bà vợ chính thất của bố. Được vài năm, Nguyễn Du trở về Tiên Điền ở với người chú họ Tiến sĩ Nguyễn Hành.
Cũng trong năm 1778, Nguyễn Ánh nổi dậy ở miền Nam xưng là Đại nguyên soái cố gắng thu phục lại giang sơn của ông cha.
Năm 1783, Nguyễn Du (18 tuổi) thi hương đậu Tam Trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa. Vào đời làm việc được cỡ 5 năm, vào năm 1789, sau khi Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân Thanh thì Nguyễn Du về quê vợ ở Thái Bình ngụ tại nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Trong thời gian này, một nhà văn thơ đàn anh của Nguyễn Du tên là Nguyễn Hữu Chỉnh phản Tây Sơn, bị tướng Tây Sơn là Vũ văn Nhậm cho xé xác phơi thây ở bốn cửa thành. Biến cố này đã lưu lại trong Nguyễn Du những dao động mạnh và có ảnh hưởng rất lớn đến tâm trạng của Nguyễn Du.
Tập thơ chữ Hán Thanh Hiên Thi Tập gồm 78 bài làm trong giai đoạn 1786-1804, phần Mười năm gió bụi - 1786-1795, làm trong thời gian ông số ng ở Thái Bình, gồm 27 bài thơ (theo một số tài liệu) là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn Du. Sau đó là 6 năm ông trở lại nhà sống dưới chân núi Hồng lĩnh, và hai năm làm Tri huyện ở Bắc Hà.
Năm 1796: Nguyễn Du dự định vào Gia Định cộng tác với Chúa Nguyễn, âm mưu bị bại lộ, bị nhà Tây Sơn bắt giam ba tháng. "Có thể" Nguyễn Du đã thai nghénTruyện Kiều vào thời gian này. Năm nay Nguyễn Du đúng 30 tuổi. "Trải qua một cuộc biển dâu". (Một biển dâu = 30 năm).
Năm 1797: Nguyễn Du ẩn dật tại Tiên Điền.
Trải qua mười năm gió bụi ở Quỳnh Hải, 5 năm nghèo túng ở Hồng Lĩnh, không hợp tác với Tây Sơn, giữ vai Hồng Sơn liệp hộ (thợ săn) hay Nam Hải điếu đề (kẻ chài), đạm bạc rau dưa, Nguyễn Du như vẫn còn chờ thời.
Năm 1801: Nguyễn Ánh hạ thành Huế, qua năm sau 1802 lật đổ Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, hạ thành Thăng Long thống nhất sơn hà, lên ngôi Hoàng đế niên hiệu Gia Long, xuống chiếu mời các cựu thần nhà Lê trở lại làm quan. Nguyễn Du bắt đầu làm quan từ năm đó (1802).
Năm 1805: Vua Gia Long vời Nguyễn Du vào Phú Xuân thăng chức Đông Các điện học sĩ, ban tước Du Đức Hầu, "có thể" cùng năm này Nguyễn Du đã hoàn thành tác phẩm Truyện Kiều.
Năm 1813: Nguyễn Du được thăng Cần chánh đại học sĩ, đồng thời được cử làm Chánh sứ sang Tầu.
Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri.
Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí. Theo Đại Nam Liệt Truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì...''
Nguyễn Du ra làm quan mà vẫn chán nản buồn rầu, chức lớn, nhưng Nguyễn Du vẫn không có hào hứng trong nhiệm vụ, ba lần xin về hưu, sáng tác nhiều bài thơ đầy chán nản, than thở. Phải chăng những biến cố lịch sử trong thời gian này đã làm cho Nguyên Du trở nên yếm thế?
Năm 1820: Vua Gia Long băng hà, Vua Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du được cử sang Trung Quốc lần thứ hai, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh mất vào ngày 16 tháng 9 năm 1820, hưởng thọ 54 tuổi.
Đại Nam Liệt Truyện viết: "Đến khi ốm nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì.''
Tác
phẩm tiêu biểu: ngoài Truyện Kiều nổi
tiếng ra, Nguyễn Du còn để lại Văn Tế Thập
Loại Chúng Sinh, Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu,
Thác Lời Trai Phường Nón bằng chữ Nôm, và ba
tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập, Nam Trung Tạp
Ngâm và Bắc Hành Tạp Lục.
Bắc Hành Tạp Lục – Phần I
Xin nhắc lại ba tác phẩm chữ Hán của Nguyễn Du là (1) Thanh Hiên Thi Tập gồm ba phần: Mười năm gió bụi, Dưới chân núi Hồng, và làm quan ở Bắc hà , (2) Nam Trung Tạp Ngâm , và (3) Bắc Hành Tạp Lục. Tập Thanh Hiên gồm 78 bài thơ, tập Nam Trung gồm 40 bài, và tập Bắc Hành gồm 131 bài. Số lượng thơ sáng tác chắc chắn còn nhiều hơn nữa, nhưng đến nay những vị văn thi sĩ lão thành để nhiệt tâm vào việc thu thập thơ chữ Hán của Nguyễn Du như nhóm của cụ Bùi Kỷ, nhóm cụ Lê Thước...chỉ thu thập được 249 bài.
Nguyễn Du cùng phái đoàn đi công sứ Trung Hoa, rời ải Nam Quan ngày 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813) , lên tới Bắc kinh, lưu du phần lớn bằng thuyền, rồi trở về nước tới ải Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814).
Theo tài liệu ghi chép và dựa theo những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du làm khi thăm viếng những di tích lịch sử Trung Hoa thì lộ trình của phái bộ Nguyễn Du như sau: Thăng Long, Nam Quan, Quảng Tây, Quế Lâm, Toàn Châu, Hồ Nam, Lôi Châu, Hành Dương, Giang Nam, Trường Sa, Tương Âm, Nhạc Dương, Hán Dương, Võ Xương, Hứa Đô, Nghiệp, Hàm Đan, Tấn Dương, Yên Kinh, Sơn Đông, Khúc Phụ, Tứ Thủy, Từ Châu, Hoài Nam, An Huy, Võ Xương, Lâm An (Hàng Châu), Quế Lâm, Quảng Tây, Nam Quan.
Theo một tài liệu khác thì lộ trình sứ bộ như sau:
Đường đi của sứ bộ Nguyễn Du (1813-1814)
Nguyễn Du đi qua cửa Nam Quan ngày mồng 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813), đến Yên Kinh ngày 4 tháng 10 năm Quí Dậu (1813) và về qua Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814).
06-04
Quí Dậu : đi qua cửa Nam Quan (1813).
08-04 Quí Dậu
: đến Ninh Minh Châu.
02-05 Quí Dậu : đến thành
phủ Ngô Châu.
18-07 Quí Dậu : đến Trường Sa,
tỉnh lỵ Hồ Nam.
30-07 Quí Dậu : đến Võ Xương,
tỉnh lỵ Hồ Bắc.
09-08 Quí Dậu : từ Hán Khẩu
ra đi.
22-08 Quí Dậu : ra khỏi địa phận huyện
An Dương, tỉnh Hà Nam.
04-10 Quí Dậu : đến Yên
Kinh (1813).
24-10 Quí Dậu : từ Yên Kinh khởi hành
về nước (1813).
02-11 Quí Dậu : qua tỉnh An Huy
xuống Hồ Bắc.
25-12 Quí Dậu : đến huyện Lâm
Tương, tỉnh Hồ Nam.
30-01 Giáp Tuất : đến
huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam.
04-02 Giáp Tuất
: đến Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.
29-03 Giáp Tuất
: về qua Nam Quan (1814).
Bắc Hành Tạp Lục – Phần I
119 Long
Thành Cầm Giả Ca
120 Thăng
Long I
121 Thăng
Long II
122 Ngộ
Gia Đệ Cựu Ca Cơ
123 Quỉ
Môn Quan
124 Lạng
Thành Đạo Trung
125 Giáp
Thành Mã Phục Ba Miếu
126 Lưu
Biệt Cựu Khế Hoàng
127 Trấn
Nam Quan
128 Nam
Quan Đạo Trung
129 Mạc
Phủ Tức Sự
130 Minh
Giang Chu Phát
131 Hoàng
Sào Binh Mã
132 Ninh
Minh Giang Chu Hành
133 Vọng
Quan Âm Miếu
134 Tam
Giang Khẩu Đường Dạ Bạc
135 Thái
Bình Thành Hạ Văn Xuy Địch
136 Chu
Hành Tức Sự
137 Thái
Bình Mại Ca Giả
138 Sơn
Ðường Dạ Bạc
139 Đề
Ðại Than Mã Phục Ba Miếu
140 Vãn
Há Đại Than, Tân Lạo Bạo Trướng, Chư Hiểm Câu
Thất
141 Há
Than Hỉ Phú
142 Thương
Ngô Tức Sự
143 Thương
Ngô Mộ Vũ
144 Ngũ
Nguyệt Quan Cạnh Độ
145-159 (15 bài)
Thương Ngô Trúc Chi
Ca
160 Dương Phi
Cố Lý
161 Triệu Vũ Đế Cố
Cảnh
162 Bất
Tiến Hành
163 Tam
Liệt Miếu
164 Quế
Lâm Cù Các Bộ
165 Quế
Lâm Công Quán
166 Đề
Vi, Lư Tập Hậu
167 Quá
Thiên Bình
168 Vọng
Tương Sơn Tự
169 Vĩnh
Châu Liễu Tử Hậu Cố Trạch
170 Tương
Giang Dạ Bạc
171 Tương
Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu I
172 Tương
Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu II
173 Phản
Chiêu Hồn
174 Biện
Giả
175 TrườngSa
Giả Thái Phó
176 Sơ
Thu Cảm Hứng I
177 Sơ
Thu Cảm Hứng II
178 Sở
Vọng
179 Lỗi
Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ
Bài Thơ Đầu Tiên Tập Thơ Bắc Hành Tạp Lục
Bài thơ đầu tiên trong tập Bắc Hành Tạp Lục là bài Long Thành Cầm Giả Ca.
Truyện Kiều theo tài liệu lưu trữ, đã được Nguyễn Du làm trong thời gian đi sứ. Nếu đúng như vậy thì câu chuyện trong bài thơ chữ Hán Long Thành Cầm Giả Ca này có lẽ là một trong những nguồn hứng để Nguyễn Du sáng tác truyện Kiều.
Người Gảy Đàn Đất Long Thành (Làm trong khi
đi sứ)
Tiểu dẫn của Nguyễn Du
Bản
dịch nghĩa
Người gảy đàn đất Long Thành không rõ họ tên là gì. Nghe nói thuở nhỏ, nàng học đàn “Nguyễn” (đàn nguyệt ca do Nguyễn Hàm , người đời Tấn ở Trung Quốc chế ra) trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cũ người chết, kẻ bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ ôm đàn hát rong. Những bài nàng gãy đều là những khúc cung phụng gãy cho vua nghe, người ngoài không hề được biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi tiếng hay nhất một thời.
Hồi còn trẻ (1792-1793?), tôi đến kinh đô thăm anh tôi (Nguyễn Nễ), ở trọ gần Giám hồ (hồ Gương). Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có đến vài chục người. Nàng nỗi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo nói khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng uống hết ngay, tiền thưởng nhiều vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy tôi nấp trong bóng tối, không thấy rõ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má bầu, trán giô, mặt gẫy, không đẹp lắm, nhưng mước da trắng trẻo, thân hình đẫy đà, khéo trang điểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo màu hồng, quần lụa cánh chả, có vẻ phong nhã. Nàng hay uống rượu, hay nói pha trò, con mắt long lanh, không coi ai ra gì. Khi ở nhà anh tôi mỗi lần uống rượu thì nàng uống say đến nỗi nôn bừa bãi, nằm lăn ra đất, các bạn có chê trách cũng không lấy làm điều.
Sau đó vài năm, tôi rời nhà về Nam (Thái Bình), mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa Xuân năm nay (1813) tôi lại phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên. Chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy một chị gầy gò, vẻ tiều tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im lặng ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đã quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi thì chính là người trước kia đã gặp.
Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế! Tôi bồi hồi, không yên, ngửng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay. Người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh nhục buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sau, để ghi lại mối cảm hứng.
Bài số 1 trong Bắc Hành Tạp Lục
119/249
(Số 119 trong 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du)
Long Thành Cầm Giả Ca
Long thành giai nhân
Tính thị bất ký thanh
Độc
thiện Nguyễn cầm
Cử thành chi nhân dĩ cầm
danh
Học đắc tiên triều cung trung cung phụng
khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất
thanh.
Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến
Giám hồ hồ
biên dạ khai yến
Kỳ thời tam thất chính phương
niên,
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà
nhan hám thái tối nghi nhân;
Lịch loạn ngũ thanh
tùy thủ biến
Hoãn như sơ phong độ tùng
lâm,
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt
như Tiến phúc bi đầu toái tích lịch (1)
Ai như Trang
tích bệnh trung vi Việt ngâm (2)
Thính giả mĩ mĩ bất
tri quyện
Tiện thi Trung hòa đại nội âm. (3)
Tây sơn chư thần mãn toa tận khuynh đảo
Triệt
dạ truy hoan bất tri bão
Tả phao hữu trịch
tranh triền đầu (4)
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
Hào hoa ý khí lăng vương hầu
Ngũ lăng thiếu
niên bất túc đạo (5)
Tính tương tam thập lục cung
xuân
Hoạt tố Trường An vô giá bảo. (6)
Thủ tịch hồi dầu nhị thập niên,
Tây sơn bại
hậu dư tam thiên (7)
Chỉ xích Long Thành bất phục
kiến
Hà luống thành trung ca vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trụng mãi tiếu (8)
Tịch
trung ca kỹ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân
phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược
tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy
tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu.
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh
thính tâm trung bi,
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập
niên tiền sự
Giám hồ tịch trung tằng kiến
chi
Thành quách suy di nhân sự cải
Kỷ
xứ tang điền biến thương hải
Tây sơn cơ
nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân
tại.
Thuần tức bách niên năng kỷ thì
Thương tâm vãng sự
lệ triêm y
Nam hà qui lai đầu tận bạch (9)
Quái
để giai nhân nhan sắc suy.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
Khả
liên đối diện bất tương tri.
Chú thích:
(1) Tiến Phúc bi: bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây. Tương truyền ông Phạm Trọng Yên đời Tống, lúc làm quan ở Bá Dương, có người học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho rập một nghìn bản để bán lấy tiền. Chưa rập xong thì một đêm bản in bị sét đánh vỡ tan.
(2) Câu chuyện Trang Tích. Trang Tích là người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở Vương hỏi mọi người: "Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở, được phú quý rồi, thì còn nhớ nước Việt nữa không?" Viên thị ngự đáp: "Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra trong lúc đau ốm. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng nước Sở." Sở Vương sai người lén nghe thì thấy Trang Tích nói tiếng Việt.
(3) Trung Hòa: tên một điện của triều Lê ở Thăng Long.
(4) Triền đầu: lấy khăn quấn đầu làm vật tặng thưởng. Đời Đường trong yến tiệc vua đãi, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu như vật tặng thưởng. Về sau các món tiền thưởng cho người ca múa được gọi là triền đầu.
(5) Ngũ Lăng: nơi có năm lăng tẩm của đế vương đời Hán, nơi này dân hào hoa phú quý thường ở. Bài Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu: Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu.
(6) Trường An: chỉ Thăng Long.
(7) Sau khi Tây Sơn bại, tôi vào Nam, ý muốn nói sau năm 1802 nhà thơ vào Phú Xuân làm quan.
(8) Tuyên Phủ: chỉ quan trấn thủ Bắc Thành, vào lúc Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc mùa xuân 1813.
(9) Nam Hà: chỉ phía Nam sông Gianh.
Người Gảy Ðàn Ở Long Thành
Người đẹp Long Thành
Họ tên không được
biết
Riêng thạo đàn Nguyễn cầm
Dân
trong thành gọi nàng là cô Cầm
Gãy khúc “Cung
phụng” từ triều vua xưa
Một khúc đàn hay
tuyệt từ trời đưa xuống thế gian.
Nhớ hồi trẻ tôi đã gặp nàng một lần
Bên
hồ Giám trong một đêm yến tiệc
Tuổi cô cỡ
hai mươi mốt
Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp
như hoa
Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả
ái
Ngón tay lướt năm cung réo rắt
Tiếng
khoan như gió thổi qua rừng thông
Thanh trong như
đôi hạc kêu nơi xa xôi
Mạnh như sét đánh tan
bia Tiến phúc
Sầu bi như Trang Tích lúc đau ốm
ngâm rên tiếng Việt
Người nghe nàng say sưa
không biết mệt
Trong khúc nhạc đại nội Trung
Hoà.
Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả
Lo vui
chơi suốt đêm không nghỉ
Bên phải bên trái
tranh nhau cho thưởng
Tiền bạc coi thường có
nghĩa chi.
Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu
Giới trẻ nơi
Ngũ Lăng không đáng kể
Dường như ba mươi sáu
cung xuân
Nay Tràng An đã hun đúc được một báu vật vô giá.
Trong đầu nhớ lại đã hai mươi năm
Tây sơn
thua bại, tôi vào Nam
Long Thành gần mà cũng
chẳng được thấy
Còn nói chi đến chuyện múa
hát trong thành.
Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc vui đãi tôi
Ca kỹ
trẻ xinh cả một đám
Chỉ có một kẻ tóc hoa
râm ngồi cuối phòng
Mặt xấu, sắc khô, người
hơi nhỏ
Mày phờ phạc không điểm phấn tô
son
Sao mà đoán được người này là đệ nhất
danh ca một thời.
Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ
Lắng tai
nghe lòng càng đau xót
Tự nhiên nhớ lại hai
mươi năm trước
Bên hồ Giám trong dạ tiệc ta
đã thấy nàng
Thành quách đã chuyển, người
cũng đổi thay
Nương dâu trở thành biển cả đã
nhiều
Cơ nghiệp Tây sơn cũng đà tiêu tán
Sót
lại đây còn người múa ca.
Thấm thoắt trăm năm có là bao
Cảm thương
chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt
Ta từ Nam
trở lại, đầu bạc trắng
Trách làm sao được
sắc đẹp cũng suy tàn.
Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa
Thương
cho đối mặt mà chẳng nhìn nhận ra nhau.
120/249
Thăng Long I
Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng. (1)
Bạch đầu (2) do đắc kiến Thăng Long.
Thiên niên cự thất thành quan đạo,
Nhất phiến tân thành một cố cung.
Tương thức mỹ nhân khan bão tử,
Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông.
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy,
Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung.Thăng Long I
Núi Tản sông Lô qua bao năm trời đều vẫn vậy,
Bạc đầu nay lại thấy được Thăng Long.
Những tòa nhà cũ nghìn xưa, nay đã trở thành đường đi,
Một dải thành mới thay dấu cung điện cũ.
Những
người đẹp biết ngày xưa nay đều đèo bồng con
trẻ,
Bạn hào hiệp lúc trẻ cũng đều già
cả.
Suốt đêm khổ tâm nghĩ ngợi không ngủ
được,
Nghe tiếng sáo văng vẳng trong ánh trăng.
Chú thích:
(1) Thăng Long: Từ đời Lý, kinh đô Việt Nam đóng tại Thăng Long. Thăng Long nghĩa đen là rồng hiện lên. Đến đời Nguyễn, Gia Long đóng đô tại Huế, và đổi chữ Thăng Long là rồng hiện thành chữ Thăng Long là thịnh vượng. Nhưng trong văn thơ, cổ nhân vẫn viết chữ theo tên cũ Thăng Long là rồng hiện.
(2) Bạch đầu: Nguyễn Du mới ba mươi tuổi đã bạc đầu và dùng chữ này để nói về mình trong rất nhiều bài thơ trong Thanh Hiên Thi Tập và Nam Trung Tạp Ngâm . Nhưng chữ bạch đầu trong bài này nói về tuổi già. Nguyễn Du rời Thăng Long lúc nhà Lê mạt (1789), vua Lê chạy sang Trung Quốc, lúc ấy Nguyễn Du mới 25 tuổi. Đến khi Gia Long lên ngôi (1802) Nguyễn Du từ Hà Tĩnh ra Thăng Long làm quan. Lúc ấy Nguyễn Du 37 tuổi. Đến khi vâng mệnh đi sứ Trung Hoa (1813), Nguyễn Du đến Thăng Long một lần nữa. Bài thơ này làm lúc ra Thăng Long để sang Trung Quốc. Lúc đó Nguyễn Du đã gần ngũ tuần. Cho nên mới nói Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long.
121/249
Thăng Long II
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành,
Do thị
Thăng Long cựu đế kinh
Cù hang tứ khai mê cựu
tích
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh
Thiên
niên phú quý cung tranh đoạt
Tảo tuế thân bằng
bán tử sinh
Thế sự phù trầm hưu thán tức
Tư
gia đầu bạch diệc tinh tinh.
Thăng Long II
Trăng thuở nào chiếu sáng khu thành mới
Vẫn là
một Thăng Long của ngày xưa
Đường ngang đường
dọc lạc cả lối
Nghe tiếng sáo tiếng đàn
cũng đượm âm thanh mới
Ngàn năm bả phú quý
vẫn là mồi tranh đoạt
Bạn bè ngày trẻ nay kẻ
sống người chết
Cuộc đời lên xuống ngưng
ca thán
Thân ta thì mái tóc bạc lốm đốm mau.
122/249
Ngộ Gia Đệ Cựu Ca Cơ
Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
Huyền hạc qui lai kỷ cá tri. (1)
Hồng tụ tằng văn ca uyển chyển, (2)
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly,
Phúc bồn dĩ hĩ nan thu thủy,
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti!
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử
Khả liên do trước khứ thời y.Gặp Người Hát Cũ Của Em Tôi
Nơi chốn thị thành gặp lại người sau thời loạn,
Hạc đen ta nay trở về có ai hay đâu.
Áo hồng đào hát giọng ca hay ngày trước,
Đầu bạc nay gặp lại than khóc nỗi chia lìa.
Chẳng thể vớt lại chậu nước đã đổ,
Ngó sen tuy đứt, mà tơ vẫn còn vương.
Nói chuyện biết lấy chồng khác có ba con,
Thấy thương cho vẫn mặc chiếc áo ngày xưa.Chú thích:
Người em ở đây có lẽ Nguyễn Du muốn nói về người em trai tên là Nguyễn Ức. Nguyễn Ức lúc bấy giờ đang làm thiềm sự bộ Công, tước hầu. Khi Nguyễn Du ghé Thăng Long trên đường đi sứ, gặp lại người bạn ca hát của người em.
(1) Chim hạc đen: Ý nói Nguyễn Du xa Thăng Long lâu ngày nay mới trở lại.
(2) Hồng tụ: ống tay áo mầu hồng, chỉ áo đào hát.
No comments:
Post a Comment