Saturday, November 21, 2020

Đàn Đáy Việt Nam và Ca Trù. SVĐG.

 

Cầm Ca Việt Nam: Đàn Đáy và Ca Trù.

Sóng Việt ĐG thu thập.

Đàn Đáy và Ca trù.



Các cụ xưa rất ưa ca trù. Ca trù chính là hát ả đào, nghĩa là lối hát của cô đầu khi tiếp đãi quan viên.

Trống chầu- Phách- Đàn đáy.

Sở dĩ gọi là ca trù vì ngày xưa khi có tế lễ thường mời ca nhi tới hát và khi hát có lệ hát thẻ. Thẻ gọi là trù làm bằng mảnh tre ghi chữ đánh dấu, dùng để thưởng ả đào thay cho tiền mặt.

Trong buổi hát thờ, mỗi khi ca nhi hát hay, lại được thưởng một chiếc thẻ, khi buổi hát tan, đoàn ca hát cứ theo số thẻ lĩnh tiền thưởng. Do đó, hát ả đào gọi là ca trù, nghĩa là hát thẻ.

Hát ả đào còn gọi là hát cô đầu, hát nhả tơ hay hát nhà trò.

Khi ả đào hát có kép dùng đàn để đệm cho câu hát và có quan viên đánh trống cầm chầu.

Chính ả đào trong lúc hát lại gõ phách để giữ nhịp câu hát.

 


Hát ả đào có ba lối chính:

-Hát chơi là hát khi tổ chức tại nhà quan viên hay tại nhà ả đào để quan viên mua vui. Trong những buổi hát chơi này, cô đầu thường ca những bài phóng khoáng và tình tứ.

-Hát cửa đình là hát để thờ thần. Trong những buổi hát này, ca nhi thường hát những bài về sử, về kinh truyện, về sự tích danh nhân, ngoài những khúc do đào hát còn những khúc do kép hát và những vũ bộ.

-Hát thi là lối hát để khảo sát tài năng của đào kép.

Với ba lối hát, ca trù có tất cả trên 40 thể, nhưng những thể thường được hát nhiều là: Bắc phản; Mưỡu; Hát nói; Gửi thư.

 Về âm luật ca trù có 5 cung chính (cung ở đây là giọng hát và hơi đàn):

-Cung Nam, giọng bằng phẳng mà xuống thấp.

-Cung Bắc, giọng rắn rỏi mà lên cao.

-Cung Huỳnh, giọng đọc dính vào nhau mà mau.

-Cung Pha, hơi ai oán, giọng đọc chệch lơ lớ đi.

-Cung Nao, hơi chênh chênh, đương ở cung nọ chuyển sang cung kia. Cung nao chen lấn ở giữa, âm nhạc Tây phương gọi là nửa cung.

Về sau có thêm một cung nữa gọi là cung Phú. Cung Phú hơi như vẻ đọc Phú, cuối câu có hơi ngân bậc cao.

ĐÀN ĐÁY - Đàn đáy còn được gọi là đàn nhà trò, vì được dùng nơi cầm ca, do các kép gảy khi ca nhi hát ả đào. Đàn mặt sau khoét rỗng, nên còn được gọi là vô để cầm. Đàn thùng vuông, cần dài ba thước và cũng có ba dây, căng từ cuối thùng đàn lên đầu cần đàn, nơi có ba chiếc trục để vặn ba chiếc dây, hình thức gần như đàn cầm nam. Có người cho rằng đàn đáy chính là biến thân của đàn cầm nam mà hình dáng được sửa đổi lại.

Đàn đáy gảy theo điệu hát của các ca nhi, cao thấp mau chậm, nhặt khoan tùy theo điệu hát, thật là hay. Ngày xưa, người Nghệ An chơi đàn đáy rất tuyệt diệu, được tiếng khắp trong nước, và trong các tài tử có Cửu Đạm đàn thật cao nên ngày nay nhắc tới, những người quán ở tỉnh này còn nhớ.


Tương truyền rằng đàn đáy do ông Lý Thuyết Quài, một vị trong bát tiên sáng chế ra: Xưa có hai vợ chồng nhà đốt than ăn ở rất nhân từ mà vẫn nghèo, cho đến một hôm được một ông già cho một cây đàn và bảo hai vợ chồng tập đàn ca sẽ giàu có.

Hai vợ chồng mang đàn về nhưng không biết đàn, lại tìm đến ông già ấy dạy cho hàng ngày cho tới khi biết sử dụng đàn. Vừa hay lúc ấy gặp ngày lễ Vạn thọ vua Hán Vũ Đế. Hai vợ chồng đến đàn hát.

Bầy tôi vua Vũ Đế có ông Đông Phương Sóc, nghe tiếng đàn thấy điệu quen, đã từng được nghe. Hỏi thì hai vợ chồng nhà này nói rõ đầu đuôi và tả hình dạng ông già. Đông Phương Sóc lúc đó mới nhớ lại đây là bản đàn của Lý Thiết Quài gảy ở cung tiên. Do sự tích trên mà sau này tại các làng có nghề nhà trò, khi cúng tế, thường tế vua Hán Vũ Đế, ông Đông Phương Sóc và ông Lý Thiết Quài, như ở làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh vậy.

Trên đây là mấy loại đàn được ta thường dùng ngày trước, và cho tới ngày nay cũng không có mấy thay đổi đối với cổ nhạc.

Các nhà chơi đàn của ta xưa, trong các cây đàn nêu trên, thường lấy 5 cây đàn làm ngũ điệu: đàn Tranh, đàn Nguyệt, đàn Tỳ bà, Nhị và đàn Tam. Các tài tử phong lưu xuất sắc thường biết chơi cả năm cây đàn trên.  (1)



Một buổi gặp gỡ văn nghệ, nghe hát ca trù của các văn nghệ sĩ một thời ở "Gác Lưu xá" 11 Hàng Bông của ông Trần Văn Lưu - Ảnh: Trần Chính Nghĩa.

**

Đàn đáy , hay còn gọi là Vô đề cầm là một loại nhạc cụ có 3 dây, phần cán rất dài và mặt sau của thùng âm có một lỗ lớn. Đây là nhạc cụ dân tộc cổ truyền của người Việt, không chỉ độc đáo ở hình dáng, âm thanh, mà còn được kết hợp với các nhạc cụ như phách và  trống đế, tạo nên loại hình ca trù nổi tiếng.

Không rõ đàn đáy xuất hiện lần đầu vào thời điểm nào nhưng nó có mặt ít ra đã 500 năm hơn. Theo phó giáo sư TS Thụy Loan, thì các mảng điêu khắc ở đình Lỗ Hạnh, đình Hoàng Xá và đền Tam Lang (niên đại thế kỷ 16-18) cho ta biết đàn đáy đã phổ biến trong dân gian vào thời nhà Mạc (1527-1593). Thời điểm xuất hiện của đàn đáy theo đó được các nhà nghiên cứu nghi nhận sớm nhất là thế kỷ 15. Niên đại xuất hiện này hoàn toàn phù hợp với những ghi chép trong thư tịch cổ và những tư liệu mỹ thuật đã được phát hiện.

Đàn đáy có tên gốc là "đàn không đáy" tức "vô đề cầm", vì nó không có đáy (hậu đàn). Do đó người ta gọi tắt là đàn đáy lâu ngày thành tên chính thức như hiện nay. Một giả thuyết khác cho rằng nhạc cụ này có dây đeo bằng vải, dây này trong chữ Hán là "đái" (đai) nên mới gọi là "đàn đái", đọc chệch lâu ngày thành "đàn đáy".

Đàn đáy có 4 bộ phận chính:

1.   Bầu đàn, còn gọi là thùng đàn: bằng gỗ, hình thang cân. Đáy lớn nằm phía trên, rộng khoảng 23–30 cm, đáy nhỏ nằm phía dưới rộng khoảng 18–20 cm. Cạnh 2 bên khoảng 31–40 cm. Thành đàn vang bằng gỗ cứng, dày khoảng 8–10 cm. Mặt đàn bằng gỗ ngô đồng, có một bộ phận để móc dây đàn. Có khi mặt đàn khoét một lỗ hình chữ nhật. Đáy đàn thủng hình chữ nhật.

2.   Cần đàn: dài 1,10m-1,30 m gắn phía trên từ 10 đến 12 phím đàn bằng tre nhưng đàn đáy cổ có 16 phím. Các phím này dày và cao, phần đỉnh dài hơn phần chân phím. Tính từ đầu đàn trở xuống, phím đầu tiên không gắn sát vào sơn khâu như nhiều nhạc cụ khác mà lại nằm ở quãng giữa cần đàn.

3.   Đầu đàn: hình lá đề, hốc luồn dây có 3 trục chỉnh dây.

4.   Dây đàn: 3 dây bằng tơ se, dài, mềm và dễ nhấn mang tên dây Hàngdây Trung và dây Liễu. Ngày nay, những dây này có thể bằng nylon với kích thước to nhỏ khác nhau. Dây đàn được chia làm năm cung: cung Namcung Bắccung Naocung Huỳnh và cung Pha.

Đàn đáy có âm vực rộng hơn 2 quãng tám, âm sắc giống đàn tranh geomungo của  Korea. Người biểu diễn thường dùng đàn đáy đệm cho giọng nữ cao hoặc phối hợp với những nhạc cụ gõ có âm thanh khô (ít vang).

Đàn đáy là nhạc cụ độc đáo chỉ duy nhất dùng để biểu diễn ca trù cùng với phách và trống chầu. Ngày nay nó còn được dùng trong một số dàn nhạc dân tộc để hoà tấu. (2)

Phách có nhiều loại và tên gọi khác nhau. Trong Hát Xẩm Phách gọi là Sênh Sứa/Cặp Kè; trong Cải Lương và Dàn nhạc Đờn Ca Tài Tử Phách là Song Loan; trong Ca Huế Phách là Sênh/Sênh Tiền/Sinh Tiền, còn trong Dàn nhạc Tuồng, Đám ma, Múa tôn giáo và Múa dân gian người ta mới gọi là Phách.

Bộ Phách ả đào gồm có bàn Phách, tay ba và hai lá Phách. Bàn Phách là miếng tre dài khoảng 30 cm, bản rộng chừng khoảng 4 cm. Nó có 2 đầu mấu tre dùng làm chân cho mặt bàn Phách cao lên. Hai lá Phách là dùi gõ kép. Người ta cầm 2 lá Phách chập vào nhau để gõ vào mặt bàn Phách. Tay ba là dùi gõ làm bằng gỗ mít, dài như 2 lá Phách, được người sử dụng cầm bằng tay trái.

Khi Phách 2 lá gõ vào bàn Phách âm sắc phát ra nhòa, bẹt và hơi đục. Lúc dùng tay ba gõ vào bàn Phách âm sắc sẽ trong, gọn và dòn. Hình thức dùi tròn được xem như là dương vật (linga theo truyền thống Ấn Độ), dùi chẻ hai được xem như là âm vật (yoni). Nhờ vậy, khi nghe 2 tiếng Phách thính giả nhận thấy rằng có một tiếng trong và một tiếng đục, một tiếng mạnh và một tiếng nhẹ, một tiếng cao và một tiếng thấp, một tiếng dương và một tiếng âm. Tiếng Phách trong Ca Trù/Hát Ả Đào Việt Nam rất độc đáo vì trong âm nhạc thế giới không có nước nào khác có cách gõ như thế. (3

Sóng Việt ĐG thu thập.

 (1)Cầm Ca Việt Nam. Toan Ánh. NXB Xuân Thu 1970. Sachvui.com

(2) https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0n_%C4%91%C3%A1y

(3) https://dotchuoinon.com/2015/07/07/nhac-cu-co-truyen-vn-phach/

Hình Internet.


No comments: