Nhớ Không Em
Nhớ không em khi bình minh vừa đến
Vầng Thái dương chiếu sáng xuyên áng mây
Nhớ không em khi đêm vừa kề bến
Màn chiều buông khêu mộng ước đắm say
Trong quyến rũ của bóng chiều đồng cảm
Em có nghe tiếng gọi của rừng sâu
Tiếng thì thầm nhớ không em đang hỏi
Nhớ không em vang vọng suốt đêm thâu
Cơ duyên xe, đôi ta chung chiều hướng
Dù buồn phiền dù ngày tháng viển vông
Không biên giới như giòng sông vô tận
Không chia cách như biển rộng mênh mông
Nhớ không em trong suơng mai tươi mát
Em là nguồn suối ngọt chảy miên man
Là thác trong cuốn anh vào du mộng
Bềnh bồng trôi hay hối hả miệt mài
Xuân đang nở giữa rừng già cằn cỗi
Hoa bừng lên khoe sắc cùng bướm oanh
Chim muông hót hợp ca muôn điệu nhạc
Tranh thiên nhiên toàn mỹ chờ chúng mình
Nhớ không em…
28 April 2010
Thursday, April 29, 2010
Từ Lúc Xa
Từ Lúc Xa
Từ lúc xa/ nghe từng cơn trống trải,
Buồn đời về/ kéo đến dệt vần thơ.
Trang giấy cũ/ gọi tần ngần ngơ ngẩn,
Qua mùa đông/ u ám tự bao giờ.
Thoảng giây phút/ chợt đây rồi câm nín,
Dường như thương/ chưa hề thốt nên lời.
Gió đầu xuân/ cứ hồn nhiên xào xạc,
Mặc tâm tư giao động/ xốn xang đời.
Chợt khóc đấy/ rồi chợt cười như trẻ,
Chuỗi tâm tư gào thét/ xé âm thanh.
Có ai biết/ trong cội nguồn đơn lẻ,
Tỉnh cơn mê/ người thoát một khúc quanh.
Chén cà phê nay một mình ta nhấp,
Tiễn đưa nào không mất một đoạn đường.
Giã từ buồn cũng là ngày tỉnh ngộ,
Nắng sớm mai óng ánh sợi tơ vương.
Sóng Việt
29 April 2010
Từ lúc xa/ nghe từng cơn trống trải,
Buồn đời về/ kéo đến dệt vần thơ.
Trang giấy cũ/ gọi tần ngần ngơ ngẩn,
Qua mùa đông/ u ám tự bao giờ.
Thoảng giây phút/ chợt đây rồi câm nín,
Dường như thương/ chưa hề thốt nên lời.
Gió đầu xuân/ cứ hồn nhiên xào xạc,
Mặc tâm tư giao động/ xốn xang đời.
Chợt khóc đấy/ rồi chợt cười như trẻ,
Chuỗi tâm tư gào thét/ xé âm thanh.
Có ai biết/ trong cội nguồn đơn lẻ,
Tỉnh cơn mê/ người thoát một khúc quanh.
Chén cà phê nay một mình ta nhấp,
Tiễn đưa nào không mất một đoạn đường.
Giã từ buồn cũng là ngày tỉnh ngộ,
Nắng sớm mai óng ánh sợi tơ vương.
Sóng Việt
29 April 2010
Wednesday, April 28, 2010
Khung Trời Quê Hương
Khung trời quê hưong
Nhìn những tấm hình
Thấy đập vào mắt
Xúc động mãnh liệt
Hai hàng lệ rơi
Không cầm đuợc lòng
Viết vội vài hàng
Lệ vẫn rơi lả chả….
Năm 1955 là những ngày tôi vừa đến miền nam
Cyclo kéo tại toà đô sảnh Saigon
Xe ngựa kéo và những chiếc Citroein đen trắng
Dường thân thuộc tựa như mới hôm qua .
Trong ồn ào náo Saigon xưa
Trong bương ba tất tưởi cuộc mưu sinh
Kìa người đàn bà gầy ngồi bán thuốc
Hiện thân già người vũ nữ năm xưa ?
Xe thổ mộ, xe hàng rong sirup
Xe hàng gánh xe bò xe ba bánh
Quê hương tôi, ôi! sinh hoạt suốt cả ngày
Tôi tìm lại tôi trong những ngày xa xưa ấy
Tôi thấy tôi ăn hàng quà vặt
Tôi thấy tôi ngồi xe cyclo đạp đi khắp phố
Tôi thấy tôi trốn vào rạp ciné
Để tránh nắng hay đi tìm cảm giác lạ lùng?
Tôi thấy tôi lang thang dưới hàng cây xanh mát
Tôi thấy tôi trong chiếc taxi hai màu xanh trắng
Thấy hoa Phượng đỏ rực một quãng đường
Thấy nhà sách Khai trí, chiều thứ bẩy vẫn đến
Thấy hộp thơ sắt đầu đường mầu vàng ba sọc đỏ
Thấy và lại thấy…
Quê hương tôi, ôi vạn nẻo đuờng đất nước…
Giọt nước mắt hôm nay.
Nhớ về kỷ niệm
Mà
Khóc cho điêu linh dân nghèo
Cho quê hương tương lai mờ mịt
Biết bao giờ dân tộc tôi bớt lầm than
Biết bao giờ quê hương tôi
Hết tai ương hết lụt lội mút mùa.
Thế mà đã ba muơi lăm năm qua…
Sóng Việt
28 tháng Tư 2010
Nhìn những tấm hình
Thấy đập vào mắt
Xúc động mãnh liệt
Hai hàng lệ rơi
Không cầm đuợc lòng
Viết vội vài hàng
Lệ vẫn rơi lả chả….
Năm 1955 là những ngày tôi vừa đến miền nam
Cyclo kéo tại toà đô sảnh Saigon
Xe ngựa kéo và những chiếc Citroein đen trắng
Dường thân thuộc tựa như mới hôm qua .
Trong ồn ào náo Saigon xưa
Trong bương ba tất tưởi cuộc mưu sinh
Kìa người đàn bà gầy ngồi bán thuốc
Hiện thân già người vũ nữ năm xưa ?
Xe thổ mộ, xe hàng rong sirup
Xe hàng gánh xe bò xe ba bánh
Quê hương tôi, ôi! sinh hoạt suốt cả ngày
Tôi tìm lại tôi trong những ngày xa xưa ấy
Tôi thấy tôi ăn hàng quà vặt
Tôi thấy tôi ngồi xe cyclo đạp đi khắp phố
Tôi thấy tôi trốn vào rạp ciné
Để tránh nắng hay đi tìm cảm giác lạ lùng?
Tôi thấy tôi lang thang dưới hàng cây xanh mát
Tôi thấy tôi trong chiếc taxi hai màu xanh trắng
Thấy hoa Phượng đỏ rực một quãng đường
Thấy nhà sách Khai trí, chiều thứ bẩy vẫn đến
Thấy hộp thơ sắt đầu đường mầu vàng ba sọc đỏ
Thấy và lại thấy…
Quê hương tôi, ôi vạn nẻo đuờng đất nước…
Giọt nước mắt hôm nay.
Nhớ về kỷ niệm
Mà
Khóc cho điêu linh dân nghèo
Cho quê hương tương lai mờ mịt
Biết bao giờ dân tộc tôi bớt lầm than
Biết bao giờ quê hương tôi
Hết tai ương hết lụt lội mút mùa.
Thế mà đã ba muơi lăm năm qua…
Sóng Việt
28 tháng Tư 2010
Sunday, April 18, 2010
Em Là Ai ?
Em Là Ai?
Một ngày trong không gian
Cách xa ngoài thế giới
Đôi tâm hồn bình dị
Lơì tâm sự nhỏ to
Tiếng cười vui hồn nhiên
Trong quán gió đơn sơ...
Trong thế giới xa lạ
Tôi chợt gặp được em
Một ốc đảo xanh tươi
Giữa biển cát quạnh hiu
Trong nắng gió khô khan
Em cho tôi giọt nước
Nhiệm mầu của cuộc đời
Của nhớ nhung quay quắt
Mặn nồng và ngọt ngào tình yêu thương...
Cuộc đời tôi đi qua
Dẫu giữa lòng phố xá
Sao hồn vẫn quạnh hiu
Như độc hành sa mạc
Dấu chân trên đồi cát
Tháng năm dài lẻ loi
Em là ai hỡi em?
Sóng Việt
2 February 2002
Who Are You?
One day out in space
And out of this world
Two simple souls existed
To share their confidences
And their joyful laughs
In a wind-swept humble inn.
In this strange world
I chanced upon you,
A green oasis
Amidst a bleak sea of sand.
In the drought and sun
You gave me the spring
The marvel of life
The poignant longing
The sweet, voluptuous love.
My life still flows on
Amidst the bustling town
Yet utterly lonely
Like a desert wayfarer
Leaving footmarks in the sand
Through solitary time.
Who are you, my dear?
Translated by Thomas D Le
6 October 2003
http://songvietgiang.fortunecity.com/svpoet.html
Một ngày trong không gian
Cách xa ngoài thế giới
Đôi tâm hồn bình dị
Lơì tâm sự nhỏ to
Tiếng cười vui hồn nhiên
Trong quán gió đơn sơ...
Trong thế giới xa lạ
Tôi chợt gặp được em
Một ốc đảo xanh tươi
Giữa biển cát quạnh hiu
Trong nắng gió khô khan
Em cho tôi giọt nước
Nhiệm mầu của cuộc đời
Của nhớ nhung quay quắt
Mặn nồng và ngọt ngào tình yêu thương...
Cuộc đời tôi đi qua
Dẫu giữa lòng phố xá
Sao hồn vẫn quạnh hiu
Như độc hành sa mạc
Dấu chân trên đồi cát
Tháng năm dài lẻ loi
Em là ai hỡi em?
Sóng Việt
2 February 2002
Who Are You?
One day out in space
And out of this world
Two simple souls existed
To share their confidences
And their joyful laughs
In a wind-swept humble inn.
In this strange world
I chanced upon you,
A green oasis
Amidst a bleak sea of sand.
In the drought and sun
You gave me the spring
The marvel of life
The poignant longing
The sweet, voluptuous love.
My life still flows on
Amidst the bustling town
Yet utterly lonely
Like a desert wayfarer
Leaving footmarks in the sand
Through solitary time.
Who are you, my dear?
Translated by Thomas D Le
6 October 2003
http://songvietgiang.fortunecity.com/svpoet.html
Cà Phê Mình Rót Cho Nhau
The Coffee We Poured
Sóng Việt-Ðàm Giang
Introduced and Translated by Thomas D. Le
The fragrance of love, the swirling steam, and the warmth that mingles with our breath. That, sweetheart, is the coffee we pour each other amidst variegated spring flowers, through the luminous summer days, while holding hands in the soft autumn drizzle, and huddled together against the gloomy winter cold.
Each season we make coffee our indissoluble bond; each day we make coffee our unbreakable ritual. How can I forget the moments we spent by each other's side, over the hot coffee, your arms around me, your eyes twinkling with happiness, and your laughs so vibrant with joy? I cherish those supreme moments of togetherness, and still bask in the glow of your radiant face.
As each day dawns I come to you with a rosebud in hand, an affectionate heart, and a cup of coffee that we share. More than just a brew, our coffee keeps us warm, together, and secure. Did you not say how comfortable you felt with me, and how thrilled you were with my touch that you call magic? That is, sweetheart, because the coffee I make is the daily love potion you want for us. Now and forever.
Cà Phê Mình Rót Cho Nhau
Cà phê anh rót cho em
Cho ta cùng uống những ngày đầu xuân
Cà phê em rót cho anh
Cho ta cùng uống nhưng ngày hè vui
Cà phê thơm ngát hương thu
Cho nhau hơi ấm những ngày hàn đông.
Anh nhớ măi, mắt nhung huyền yêu dấu
Êm như thơ, như mặt nước hồ thu
Anh còn nhớ những phút giờ êm ái
Em với anh quấn quýt tay trong tay.
Anh còn nhớ tiếng em cười em rộn rã
Vui như oanh ca hát đón mừng xuân
Anh còn nhớ những nụ hôn nồng cháy
Mắt long lanh thiết tha trong tình say.
Anh đến với em,
với hoa hồng sáng sớm
Với cà phê, trong tình thắm vạn niên.
Anh đến bên em,
với tim nồng máu thắm
Và tình yêu bất diệt không phôi pha.
Sóng Việt
Hè 2003
The Coffee We Poured
The coffee that I poured for you, my dear,
Let's drink it up to those budding spring days.
The coffee that you poured for me, my dear,
Let's drink it up to merry summer days.
The fragrance that graces the autumn brews
Warms up our hearts through those cold winter hues.
I will fore'er hold your lovely soft eyes
As sweet poems reflect the autumn lake.
I still recall those fond moments of days
When you and I unite in tight embrace.
I'll always remember your lively laughs
Echo the oriole's spring song with grace.
And I love those burning kisses of yours
That make your eyes shine in ecstatic bliss.
I came to you gently, my sweetheart dear,
Dainty rosebud in hand this morning clear,
And this coffee for our eternal love.
I came to you my cherished darling dear,
With my blood-red seething heart full of love,
Undying tenderness year after year.
18 August 2003
Sóng Việt-Ðàm Giang
Introduced and Translated by Thomas D. Le
The fragrance of love, the swirling steam, and the warmth that mingles with our breath. That, sweetheart, is the coffee we pour each other amidst variegated spring flowers, through the luminous summer days, while holding hands in the soft autumn drizzle, and huddled together against the gloomy winter cold.
Each season we make coffee our indissoluble bond; each day we make coffee our unbreakable ritual. How can I forget the moments we spent by each other's side, over the hot coffee, your arms around me, your eyes twinkling with happiness, and your laughs so vibrant with joy? I cherish those supreme moments of togetherness, and still bask in the glow of your radiant face.
As each day dawns I come to you with a rosebud in hand, an affectionate heart, and a cup of coffee that we share. More than just a brew, our coffee keeps us warm, together, and secure. Did you not say how comfortable you felt with me, and how thrilled you were with my touch that you call magic? That is, sweetheart, because the coffee I make is the daily love potion you want for us. Now and forever.
Cà Phê Mình Rót Cho Nhau
Cà phê anh rót cho em
Cho ta cùng uống những ngày đầu xuân
Cà phê em rót cho anh
Cho ta cùng uống nhưng ngày hè vui
Cà phê thơm ngát hương thu
Cho nhau hơi ấm những ngày hàn đông.
Anh nhớ măi, mắt nhung huyền yêu dấu
Êm như thơ, như mặt nước hồ thu
Anh còn nhớ những phút giờ êm ái
Em với anh quấn quýt tay trong tay.
Anh còn nhớ tiếng em cười em rộn rã
Vui như oanh ca hát đón mừng xuân
Anh còn nhớ những nụ hôn nồng cháy
Mắt long lanh thiết tha trong tình say.
Anh đến với em,
với hoa hồng sáng sớm
Với cà phê, trong tình thắm vạn niên.
Anh đến bên em,
với tim nồng máu thắm
Và tình yêu bất diệt không phôi pha.
Sóng Việt
Hè 2003
The Coffee We Poured
The coffee that I poured for you, my dear,
Let's drink it up to those budding spring days.
The coffee that you poured for me, my dear,
Let's drink it up to merry summer days.
The fragrance that graces the autumn brews
Warms up our hearts through those cold winter hues.
I will fore'er hold your lovely soft eyes
As sweet poems reflect the autumn lake.
I still recall those fond moments of days
When you and I unite in tight embrace.
I'll always remember your lively laughs
Echo the oriole's spring song with grace.
And I love those burning kisses of yours
That make your eyes shine in ecstatic bliss.
I came to you gently, my sweetheart dear,
Dainty rosebud in hand this morning clear,
And this coffee for our eternal love.
I came to you my cherished darling dear,
With my blood-red seething heart full of love,
Undying tenderness year after year.
18 August 2003
Sunday, April 4, 2010
Hữu Loan_02
Nhà Thơ Hữu Loan – 2
Bài viết đầu tiên Tưởng nhớ Nhà Thơ Hữu Loan đăng trên Thế Hữu Văn đàn ra mắt trên mạng lưới vi tính ngày mùng 1 tháng Tư 2010, đã viết gấp rút cho kịp ngày ra mắt của số báo nên chưa đuợc đầy đủ.
Bài viết thứ hai Tưởng Nhớ Nhà Thơ Hữu Loan đăng trên JSong blog ngày 3 April 2010 là sự tiếp nối cho bài đầu tiên có mang vào thêm hai bài thơ khác là : Nếu Anh không đi, và Thánh Mẫu Hài Đồng.
http://jsongviet.blogspot.com/2010/04/huu-loan.html
Mộ số chi tiết đã đuợc phát triển từ bài viết lần đầu đến bài viết lần thứ hai.
Truớc hết nguời bạn Nhạc sĩ Phạm Ngọc Lân cũng đã gấp rút sáng tác bản nhạc mang đề tưa là Tòng Quân mà ông nói rằng làm thể theo lời yêu cấu của một hai người bạn chuyển bài thơ Tòng Quân do Dương Tường đã ghi chép lại vào năm 2004.
http://my.opera.com/phamngoclanguitar/blog/tongquan
Đọc đề tưa là Tòng Quân, hình như có một cái chi không ổn, tại sao lại tòng quân? Chữ đề tựa tòng quân nghe như là một bài hịch kêu gọi nhập ngũ sao nghe không có tính chất Hữu Loan chút nào cả! Mà nội dung thì lại vô cùng tình cảm !
Từ sự thắc mắc nảy mà ngưòi viết những hàng chữ này đã tìm ra đuợc đó chính là bài Nếu Anh Không đi, và bài Nếu Anh Không đi này là một trong 10 bài (Ngày mai, Màu tím hoa sim, Những làng đi qua, Hoa lúa, Phương gió, Tò he, Nếu anh không đi, Đèo Cả, Quách Xuân Kỳ, Yên Mô) đã đuợc xuất bản năm 1990 trong tập thơ Hữu Loan mỏng manh, không gáy, đó là tập thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan được ấn hành bởi NXB Hội Nhà Văn, Việt Nam. Tập thơ dày 92 trang, khổ 13 x 19cm. (tài liệu chi tiết trong bài viết của Phanxipăng- Chim Việt Cành Nam)
Nhà thơ Hữu Loan có biết là thơ mình đuợc xuất bản không?
Có lẽ không, vì chính ông không hề nhắc đến, và có lẽ nhà xuất bản Hội Nhà Văn cũng không hề liên lạc để xin phép ông chăng?
Một chút bàn về bài thơ Nếu Anh Không Đi sẽ được đăng trong một bài viết khác.
Ngoài ra qua lời của Nguyễn Hữu Đán, người con trai thứ tám của Hữu Loan thì Hữu Loan có bài Cho Mắt Em Ngấn Lệ.
“Cho mắt em ngấn lệ” là bài thương khóc người yêu đoản mệnh: một người thiếu nữ tên Lưu đã chết vì lao phổi.
Những tháp chuông giáo đường/ Giữa đô thành tiêu thổ/ Những dãy nhà chung/ Mở muôn cửa sổ/ Trên xác gục nhà xưa/ Nắng vàng chuông đung đưa/ Ngân như từng tiếng hát/ Ai cất búa phá nhà/ Xòe hai bàn tay trắng/ Chết đi rồi ngoài mặt trận/ Hãy còn xanh sắn rừng/ Trả tháp chuông/ cho/ hoàng hôn/ Và giáo đường/ cho mắt em ngấn lệ/ Em chưa cầu Đức mẹ/ Cho hồn người đi xa/ Và những ai/ còn mãi không về/ Cho/ mắt/ em/ ngấn lệ.
(Theo Nguyễn Bắc Sơn: Màu tím hoa sim mãi nhuộm tím thời gian Kỳ 1)
Và sau hết.
Tác giả những hàng chữ này xin đuợc cảm ơn tất cà những nhà văn, nhà thơ, những vị quen biết nhà thơ Hữu Loan đã phổ biến và cung cấp những tài liệu quý giá để thực hiện bài viết.
Sóng Việt Đàm Giang
04-04-2010
Nhạc sị Phạm Ngọc Lân viết:
Cám ơn SVĐG đã cho biết những chi tiết lý thú về bài thơ Tòng Quân, có tên là Nếu Anh Không Đi trong tuyển tập 10 bài thơ của Hữu Loan in năm 1990.
Tôi có hỏi lại những người cung cấp bài thơ Tòng Quân, đều không biết là đã có một tập thơ Hữu Loan xuất bản rồi. Nhà thơ BMQ ở Đà Lạt, trái lại, xác nhận là có tập thơ xuất bản năm 1990, nhưng chưa thấy tập thơ này, nên cũng không biết nội dung.
Nhà văn TDBC mới gửi cho tôi bài viết của Phanxipăng trên Chim Việt Cành Nam:
Bài này nói rất rõ về chuyện các báo chí trong nước cũng như hải ngoại đều đồng thanh loan tin Hữu Loan chưa khi nào xuất bản thơ của mình. Đây là một sai lầm "dây chuyền", và bài của Phanxipăng có kèm theo hình bìa của tập thơ mang tựa đề "Mầu Tím Hoa Sim", với 10 bài thơ của Hữu Loan, trong đó có bài Nếu Anh Không Đi (được Dương Tường gọi là Tòng Quân), và bài Yên Mô mà SV ĐG có nhắc đến trong một email gần đây.
Bài viết đầu tiên Tưởng nhớ Nhà Thơ Hữu Loan đăng trên Thế Hữu Văn đàn ra mắt trên mạng lưới vi tính ngày mùng 1 tháng Tư 2010, đã viết gấp rút cho kịp ngày ra mắt của số báo nên chưa đuợc đầy đủ.
Bài viết thứ hai Tưởng Nhớ Nhà Thơ Hữu Loan đăng trên JSong blog ngày 3 April 2010 là sự tiếp nối cho bài đầu tiên có mang vào thêm hai bài thơ khác là : Nếu Anh không đi, và Thánh Mẫu Hài Đồng.
http://jsongviet.blogspot.com/2010/04/huu-loan.html
Mộ số chi tiết đã đuợc phát triển từ bài viết lần đầu đến bài viết lần thứ hai.
Truớc hết nguời bạn Nhạc sĩ Phạm Ngọc Lân cũng đã gấp rút sáng tác bản nhạc mang đề tưa là Tòng Quân mà ông nói rằng làm thể theo lời yêu cấu của một hai người bạn chuyển bài thơ Tòng Quân do Dương Tường đã ghi chép lại vào năm 2004.
http://my.opera.com/phamngoclanguitar/blog/tongquan
Đọc đề tưa là Tòng Quân, hình như có một cái chi không ổn, tại sao lại tòng quân? Chữ đề tựa tòng quân nghe như là một bài hịch kêu gọi nhập ngũ sao nghe không có tính chất Hữu Loan chút nào cả! Mà nội dung thì lại vô cùng tình cảm !
Từ sự thắc mắc nảy mà ngưòi viết những hàng chữ này đã tìm ra đuợc đó chính là bài Nếu Anh Không đi, và bài Nếu Anh Không đi này là một trong 10 bài (Ngày mai, Màu tím hoa sim, Những làng đi qua, Hoa lúa, Phương gió, Tò he, Nếu anh không đi, Đèo Cả, Quách Xuân Kỳ, Yên Mô) đã đuợc xuất bản năm 1990 trong tập thơ Hữu Loan mỏng manh, không gáy, đó là tập thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan được ấn hành bởi NXB Hội Nhà Văn, Việt Nam. Tập thơ dày 92 trang, khổ 13 x 19cm. (tài liệu chi tiết trong bài viết của Phanxipăng- Chim Việt Cành Nam)
Nhà thơ Hữu Loan có biết là thơ mình đuợc xuất bản không?
Có lẽ không, vì chính ông không hề nhắc đến, và có lẽ nhà xuất bản Hội Nhà Văn cũng không hề liên lạc để xin phép ông chăng?
Một chút bàn về bài thơ Nếu Anh Không Đi sẽ được đăng trong một bài viết khác.
Ngoài ra qua lời của Nguyễn Hữu Đán, người con trai thứ tám của Hữu Loan thì Hữu Loan có bài Cho Mắt Em Ngấn Lệ.
“Cho mắt em ngấn lệ” là bài thương khóc người yêu đoản mệnh: một người thiếu nữ tên Lưu đã chết vì lao phổi.
Những tháp chuông giáo đường/ Giữa đô thành tiêu thổ/ Những dãy nhà chung/ Mở muôn cửa sổ/ Trên xác gục nhà xưa/ Nắng vàng chuông đung đưa/ Ngân như từng tiếng hát/ Ai cất búa phá nhà/ Xòe hai bàn tay trắng/ Chết đi rồi ngoài mặt trận/ Hãy còn xanh sắn rừng/ Trả tháp chuông/ cho/ hoàng hôn/ Và giáo đường/ cho mắt em ngấn lệ/ Em chưa cầu Đức mẹ/ Cho hồn người đi xa/ Và những ai/ còn mãi không về/ Cho/ mắt/ em/ ngấn lệ.
(Theo Nguyễn Bắc Sơn: Màu tím hoa sim mãi nhuộm tím thời gian Kỳ 1)
Và sau hết.
Tác giả những hàng chữ này xin đuợc cảm ơn tất cà những nhà văn, nhà thơ, những vị quen biết nhà thơ Hữu Loan đã phổ biến và cung cấp những tài liệu quý giá để thực hiện bài viết.
Sóng Việt Đàm Giang
04-04-2010
Nhạc sị Phạm Ngọc Lân viết:
Cám ơn SVĐG đã cho biết những chi tiết lý thú về bài thơ Tòng Quân, có tên là Nếu Anh Không Đi trong tuyển tập 10 bài thơ của Hữu Loan in năm 1990.
Tôi có hỏi lại những người cung cấp bài thơ Tòng Quân, đều không biết là đã có một tập thơ Hữu Loan xuất bản rồi. Nhà thơ BMQ ở Đà Lạt, trái lại, xác nhận là có tập thơ xuất bản năm 1990, nhưng chưa thấy tập thơ này, nên cũng không biết nội dung.
Nhà văn TDBC mới gửi cho tôi bài viết của Phanxipăng trên Chim Việt Cành Nam:
Bài này nói rất rõ về chuyện các báo chí trong nước cũng như hải ngoại đều đồng thanh loan tin Hữu Loan chưa khi nào xuất bản thơ của mình. Đây là một sai lầm "dây chuyền", và bài của Phanxipăng có kèm theo hình bìa của tập thơ mang tựa đề "Mầu Tím Hoa Sim", với 10 bài thơ của Hữu Loan, trong đó có bài Nếu Anh Không Đi (được Dương Tường gọi là Tòng Quân), và bài Yên Mô mà SV ĐG có nhắc đến trong một email gần đây.
Saturday, April 3, 2010
Xin Đừng...
Xin Đừng...
Đừng giải thích những chiều vàng lao xao
Đưa em vào tình cảm nhiều chao đao
Đưa em vào biển nhớ, thương xa vắng
Bởi vì em chẳng hiểu được tại sao...
Đừng cho em lời êm dịu ngọt ngào
Đưa em vào con đường tình kỳ ảo
Dắt em vào huyễn mộng giữa ban ngày
Bởi chính em không hiểu được vì sao...
Đừng đưa em vào giấc ngủ tuyệt vời
Có tình yêu, có mật ngọt, suối mời
Có trăng sao, nhạc dìu dặt êm đềm
Để bừng tỉnh thấy mình đang chơi vơi...
Đừng gửi em ngôi sao sáng trời thu
Lấp lánh lộng lẫy, kiêu sa quyến rũ
Vì đã bao lần nhìn bầu trời xanh thẳm
Em tự hỏi sao mình đơn côi trong vũ trụ ?
Có bao giờ anh hiểu...
Sóng Việt
27 October 2001
Đừng giải thích những chiều vàng lao xao
Đưa em vào tình cảm nhiều chao đao
Đưa em vào biển nhớ, thương xa vắng
Bởi vì em chẳng hiểu được tại sao...
Đừng cho em lời êm dịu ngọt ngào
Đưa em vào con đường tình kỳ ảo
Dắt em vào huyễn mộng giữa ban ngày
Bởi chính em không hiểu được vì sao...
Đừng đưa em vào giấc ngủ tuyệt vời
Có tình yêu, có mật ngọt, suối mời
Có trăng sao, nhạc dìu dặt êm đềm
Để bừng tỉnh thấy mình đang chơi vơi...
Đừng gửi em ngôi sao sáng trời thu
Lấp lánh lộng lẫy, kiêu sa quyến rũ
Vì đã bao lần nhìn bầu trời xanh thẳm
Em tự hỏi sao mình đơn côi trong vũ trụ ?
Có bao giờ anh hiểu...
Sóng Việt
27 October 2001
La Bohème
La bohème
Đời lãng tử
Charles Aznavour, 1965
Tôi kể cho các bạn nghe cái thời
Mà người trẻ tuổi dưới hai mươi
Không thể nào biết được
Đồi Montmartre thuở xa xưa ấy
Có những chùm hoa cây lilacs vươn cao
Đến tận cửa sổ phòng chúng tôi
Và nếu như căn phòng quá đơn sơ
Nơi tổ ấm của chúng tôi
Chẳng có chi sang trọng
Chỉ là nơi chúng ta quen nhau
Tôi thì kêu than bụng dói
Và em làm người mẫu khỏa thân
Lãng tử ! ôi đời lãng tử
Chúng mình quả là hạnh phúc thay
Lãng tử ! ôi đời lãng tử
Chúng mình miếng ăn ngày có ngày không
Trong quán cà-phê gần kề
Chúng tôi là vài kẻ
Chờ ngày đạt danh vọng vinh quang
Và mặc dù nghèo xác xơ
Với bụng đói trống rỗng
Chúng tôi vẫn không ngưng lòng tin
Và khi có một quán ăn nào đó
Đổi một bữa ăn nóng hổi
Lấy một bức tranh vẽ
Chúng tôi đọc cho nhau nghe những vần thơ
Quay quần quanh bếp lửa sưởi ấm
Để quên đi mùa đông lạnh giá
Lãng tử ! ôi đời lãng tử
Ngụ ý có em xinh đẹp
Lãng tử ! ôi đời lãng tử
Và tất cả chúng tôi là những thiên tài
Thường có nhiều khi
Trước giá vẽ bức họa
Tôi thức trắng cả đêm
Chau chuốt lại bức tranh
Sửa đường cong một bầu ngực
Uốn tròn mượt một bờ mông
Và rồi sáng ra
Chúng tôi ngồi với nhau
Trước ly cà-phê sữa
Mệt nhoài nhưng vui thích
Vì chúng mình yêu nhau nhiều
Và chúng mình yêu đời quá
Lãng tử, ôi đời lãng tử
Có nghĩa với tuổi hai mươi ấy
Lãng tữ, ôi đời lãng tử
Chúng mình tận hưởng thời đang có
Rồi một ngày tình cờ gần đây
Tôi có dịp đi
Một vòng qua phố
Cũng căn nhà mang số đó
Mà nhận không ra
Còn đâu bức tuờng, còn đâu phố cũ
Chứng kiến tuổi trẻ chứng tích năm xưa
Trên cao bậc thang
Tôi cố tìm phòng vẽ năm xưa
Nhưng chẳng còn dấu vết
Trong trang hoàng mới khu phố cũ
Montmartre dường như buồn làm sao
Và những cây lilac cũng đã chết rồi
Lãng tử, ôi đời lãng tử
Khi còn trẻ, chúng ta là những kẻ cuồng say
Lãng tử, ôi đời lãng tử
Bây giờ có còn nghĩa lý gì để nói nữa đâu
Sóng Việt phỏng dịch
http://www.youtube.com/watch?v=Yvi42VXcK14
Đời lãng tử
Charles Aznavour, 1965
Tôi kể cho các bạn nghe cái thời
Mà người trẻ tuổi dưới hai mươi
Không thể nào biết được
Đồi Montmartre thuở xa xưa ấy
Có những chùm hoa cây lilacs vươn cao
Đến tận cửa sổ phòng chúng tôi
Và nếu như căn phòng quá đơn sơ
Nơi tổ ấm của chúng tôi
Chẳng có chi sang trọng
Chỉ là nơi chúng ta quen nhau
Tôi thì kêu than bụng dói
Và em làm người mẫu khỏa thân
Lãng tử ! ôi đời lãng tử
Chúng mình quả là hạnh phúc thay
Lãng tử ! ôi đời lãng tử
Chúng mình miếng ăn ngày có ngày không
Trong quán cà-phê gần kề
Chúng tôi là vài kẻ
Chờ ngày đạt danh vọng vinh quang
Và mặc dù nghèo xác xơ
Với bụng đói trống rỗng
Chúng tôi vẫn không ngưng lòng tin
Và khi có một quán ăn nào đó
Đổi một bữa ăn nóng hổi
Lấy một bức tranh vẽ
Chúng tôi đọc cho nhau nghe những vần thơ
Quay quần quanh bếp lửa sưởi ấm
Để quên đi mùa đông lạnh giá
Lãng tử ! ôi đời lãng tử
Ngụ ý có em xinh đẹp
Lãng tử ! ôi đời lãng tử
Và tất cả chúng tôi là những thiên tài
Thường có nhiều khi
Trước giá vẽ bức họa
Tôi thức trắng cả đêm
Chau chuốt lại bức tranh
Sửa đường cong một bầu ngực
Uốn tròn mượt một bờ mông
Và rồi sáng ra
Chúng tôi ngồi với nhau
Trước ly cà-phê sữa
Mệt nhoài nhưng vui thích
Vì chúng mình yêu nhau nhiều
Và chúng mình yêu đời quá
Lãng tử, ôi đời lãng tử
Có nghĩa với tuổi hai mươi ấy
Lãng tữ, ôi đời lãng tử
Chúng mình tận hưởng thời đang có
Rồi một ngày tình cờ gần đây
Tôi có dịp đi
Một vòng qua phố
Cũng căn nhà mang số đó
Mà nhận không ra
Còn đâu bức tuờng, còn đâu phố cũ
Chứng kiến tuổi trẻ chứng tích năm xưa
Trên cao bậc thang
Tôi cố tìm phòng vẽ năm xưa
Nhưng chẳng còn dấu vết
Trong trang hoàng mới khu phố cũ
Montmartre dường như buồn làm sao
Và những cây lilac cũng đã chết rồi
Lãng tử, ôi đời lãng tử
Khi còn trẻ, chúng ta là những kẻ cuồng say
Lãng tử, ôi đời lãng tử
Bây giờ có còn nghĩa lý gì để nói nữa đâu
Sóng Việt phỏng dịch
http://www.youtube.com/watch?v=Yvi42VXcK14
Thơ Sóng Việt: Ngỡ
Ngỡ
Bên quán Ngỡ một mình trong chiều vắng,
Ngày đông về u ám chĩu sầu vương.
Tôi vẫn đợi vẫn chờ em ghé quán,
Niềm mong manh hy vọng chẳng hao gầy.
Tôi yêu em như ngày đông đợi nắng,
Một vòng tay không níu được cánh chim.
Khi vắng xa quay quắt ngày trông đợi,
Đêm dội về day dứt nỗi nhớ thương.
Tôi nhớ em như ngày thu đổ lá
Gió chiều về không cấm được tương tư
Trong nắng sớm sương mai nếm từng giọt
Hoa cúc vàng phô sắc thoảng mùi hương
Tên em gọi dường quen như chiều tím,
Gần biết bao sao chợt thấy thật xa.
Bên quán Ngỡ giữa mùa đông lạnh giá,
Chén trà thơm, hơi ấm…, vẫn dành riêng cho em.
Sóng Việt
07 December 2009
Bên quán Ngỡ một mình trong chiều vắng,
Ngày đông về u ám chĩu sầu vương.
Tôi vẫn đợi vẫn chờ em ghé quán,
Niềm mong manh hy vọng chẳng hao gầy.
Tôi yêu em như ngày đông đợi nắng,
Một vòng tay không níu được cánh chim.
Khi vắng xa quay quắt ngày trông đợi,
Đêm dội về day dứt nỗi nhớ thương.
Tôi nhớ em như ngày thu đổ lá
Gió chiều về không cấm được tương tư
Trong nắng sớm sương mai nếm từng giọt
Hoa cúc vàng phô sắc thoảng mùi hương
Tên em gọi dường quen như chiều tím,
Gần biết bao sao chợt thấy thật xa.
Bên quán Ngỡ giữa mùa đông lạnh giá,
Chén trà thơm, hơi ấm…, vẫn dành riêng cho em.
Sóng Việt
07 December 2009
Hữu Loan
Tưởng Nhớ Nhà Thơ Hữu Loan
(1916-2010)
Sóng Việt Đàm Giang
Nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, vừa qua đời ngày 18 tháng 3 năm 2010.
Chỉ trong vòng 24 giờ đồng hồ đã có hàng ngàn bài viết trên toàn thế giới nói về ông, và chỉ trong vòng một tuần (ngày 25 tháng 3, 2010) mà những bài viết đã đạt đến mức độ không kể hết.
Nếu mở Google ra và đánh hai chữ Hữu Loan vào thì độc giả có thể thấy trong Google ghi nhận có hơn hai triệu links nói về Hữu Loan và bài thơ đã làm ông nổi tiếng.
Bài thơ được nói đến đã nhiều, chính ông lúc sinh thời đã ngâm bài thơ và được thu âm phát tán đi khắp năm châu.
Vài hàng viết về ông ở đây coi như chút lòng tưởng nhớ và khâm phục ông, một nhà thơ bất khuất , khí khái và có tinh thần rất mạnh.
Những bài thơ được biết đến.
Trước khi Hữu Loan làm bài thơ Mầu Tím Hoa Sim khóc người vợ vắn số chết sớm, ông cũng đã làm một số bài thơ, hầu như những bài thơ của ông không được lưu chép cẩn thận, và hình như ông cũng không cho chuyện lưu trữ thơ là quan trọng. Có lẽ đó là cá tính của ông.
Những bài thơ được biết đến: Cũng những thằng nịnh hót, Đèo Cả, Đêm, Màu tím hoa sim, Hoa lúa, Ngày mai, Thánh mẫu hài đồng, Tình Thủ đô, Yên mô.
Hai ba bài thơ đã được thân hữu quen biết ông chép lại và phổ biến là:
Đèo Cả -1947_ Hữu Loan
Núi cao vút/ Mây trời Ai Lao / sầu / đại dương
Dặm về heo hút / Đá bia mù sương/ Bên quán Hồng Quân/ người / ngựa/ mỏi
Nhìn dốc ngồi than/ thương ai/ lên đường
Chầy ngày/ lạc/ giữa suối
Sau lưng / suối vàng / xanh / tuôn
Dưới khe / bên suối độc / cheo leo/ chòi canh/ ven rừng hoang
Những người/ đi / Nam Tiến
Dừng lại đây/ giữa / đèo núi quê hương
Tóc tai/ trùm/ vai rộng
Không nhận ra/ người làng
Rau khe/ cơm vắt/ áo/ pha màu/ sa trường
Ngày thâu/ vượn hót
Đêm canh/ gặp hùm / lang thang
Gian nan lòng không nhợt
Căm hờn trăm năm xa
Máu thiêng trôi dào dạt
Từ nguồn thiêng ông cha
Giặc/từ trong/ tràn tới
Giặc/từ Vũng Rô/ bắn qua/Đèo Cả/ vẫn/ giữ vững
Chân đèo/ máu giặc/ mấy lần/ nắng khô
Sau mỗi trận thắng
Ngồi bên suối đánh cờ
Kẻ hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu
Suối mang/ bóng người
Trôi những về đâu....
Hữu Loan (1946 ?)
Tình Thủ đô“Được viết vào đầu những năm 50 của thế kỷ trước – chắc chắn là sau chiến dịch biên giới (1950) và trước chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) - với một xu hướng cách tân rõ rệt, trường ca Tình Thủ đô là một trong số những bài thơ tự do hiếm hoi trong Kháng chiến chống Pháp thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của dòng Thơ mới (1939 - 1945). Tiết tấu hoạt, gân guốc, câu ngắn (thường chỉ hai, ba âm tiết), sắc gọn như mũi chông, hình tượng bất ngờ cắm phập vào cảm quan: “Đoàn Giải phóng quân đi/ Như gại dao trên đường nhựa... Nắng loá tường vôi/ Chữ cào xương nhức nhối...”, những điểm chấm phá gợi cảm như tranh Seurat: “Mắt em biếc/ Một chiều xưa/ Quan Thánh/ Cổ Ngư/ Bạch Mai/ Bóng liễu/ Tháp Rùa...”. Ngoài giá trị nghệ thuật cao – chuyện này còn phải bàn dài dài khi có dịp - bài thơ còn đặc biệt thân thiết với thế hệ chúng tôi bởi lẽ nói cách nào đó, nó là một phần của cái quá khứ mà bọn tôi vẫn coi là thời hoàng kim của cách mạng. Cùng với những câu thơ, khổ thơ được hồi nhớ, những kỷ niệm cũng trỗi dậy, chúng tôi như sống lại cả một thuở xa xưa”….
Trên những chuyến xe bò/ Đi về đường Trèm Vẽ
Việt Bắc âm u/ Đường dài Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư/ Đoàn xe đi
Chở nặng tâm tư/ Một góc nhà/ Một hè phố
Mắt em biếc/ Một chiều xưa
Quan Thánh/ Cổ Ngư/ Bạch Mai/ Bóng liễu Tháp Rùa
Một thằng bạn/ Một thằng con/ ở lại
Khấp khểnh xe đi/ Vấp vào đêm tối
Thủ đô/ Ngày mùa thu
Thủ đô/ Cờ bốc lửa/ phố dài
Cờ bốc lửa/ công trường Nhà Hát lớn.
Thủ đô/ Ngày Tổng Khởi Nghĩa
Ngày Thủ đô chờ đón/ Đoàn Giải phóng quân về
Qua cầu Long Biên/ Sông bóng người đi
Vai cao rộng/ Mặc núi rừng Việt Bắc
Ai về Thủ đô/ Khăn thầm nước mắt
Quốc ca mình/ Đoàn lính Việt đầu tiên
- Có người làng đi/ Trong đoàn lính trẻ.
Thủ đô/ Tuần Lễ Vàng
Hà Nội dãy dọc toà ngang
Quên giai cấp/ Trong căm thù dân tộc
Thủ đô/ Ngày Tuyên Ngôn Độc Lập
Thủ đô/ Ngày Tổng Tuyển Cử đầu tiên
Những ngày Thủ đô/ Như ộc máu triền miên
Máu những người Tây giết/ Chảy về từ lịch sử
Tiếng hát/ Vùng lên/ Xích xiềng rơi vỡ.
Thủ đô/ Ngày Tàu trắng/ Quốc dân đảng
Và thực dân/ Nghênh ngang phố chật
Bắt cóc/ Tống tiền/ Khiêu khích/ Bắn người
Đám ma đi/ Cờ đỏ phủ quan tài
Phố Ôn Như Hầu/ Những người bị giết/ Xác quăng đầy hố
Đoàn Giải phóng quân đi/ Như gại dao trên đường nhựa.
Thủ đô/ Quân lệnh đêm
Lựu đạn đen ngòm trong nắm tay
Rình sau mái ngói
Nắng loé tường vôi/ Chữ cào xương nhức nhối:
Thanh Niên Sống Chết Với Thủ Đô!
Mắt em thiếu nhi/ Hồ trăng Trung Thu:
Các anh hãy giữ non song/ Cho chúng em!
Bàn tay lớn/ Nhận lòng tin bé nhỏ.
Cụ Hồ hỏi anh em bộ đội:– Các chú liệu giữ được Thủ đô
Bảy ngày?Một rừng nắm tay
Thét tiếng:– Thề với Bác!
Lửa cháy Thủ đô/ Chân trời hấp hối
Xác thằng bạn/ Xác thằng con
Trên hè phố Thủ đô/ Giặc khởi hấn rồi!
Đường tản cư khuya/ Lửa toé sắt bánh xe bò
Một Quyết tử quân hy sinh/ Là một đoàn giặc chết/ Một Quyết tử quân hy sinh
Và bắt đầu từ đó/ Những ngày đêm Thủ đô
Tàn sát/ Khu Đồng Xuân/ Lính Trung đoàn Thủ Đô
Đâm giặc trên bàn thịt/ Như chọc tiết bò
Đuổi giặc/ Vật lăn trên nóc chợ
Hai tháng giết nhau/ Một đêm thủ đô
Có đoàn Quyết tử/ Cắt máu tay ăn thề
Ngõ vắng Thủ đô/ Những đơn vị rút đi
Góc phố Thủ đô/ Bóng những người ở lại/ ánh hoàng hôn lên
Liệm tròn huyết thệ/ Người Quyết tử quân/ cuối cùng.
Những người dân Thủ đô/ Về với giặc ở chung
Phải đốt cờ đỏ sao vàng/ Thức đêm may cờ ba sắc
Và những sớm mai/ Tay xót xa/ Đem treo cờ giặc trước nhà
Ai về Hà Nội/ Thấy Hà Nội xa hoa
Thấy Hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội/ Giặc xây thêm ngục tù
Xe Phòng Nhì/ Chở từ ngoại ô/ Từng đoàn người xiềng tay/ Về qua phố tối.
Ai về Hà Nội/ Thấy Hà Nội xa hoa/ Thấy Hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội Ngã-Tư-Sở/ Hà Nội Khâm-Thiên
Đèn khuya chảy vàng/ Những hộp đêm/ Mọc theo tiếng giày đinh
Của đoàn Tây mũ đỏ/ Tiếng xe tăng viễn chinh
Chiều đi bụi phố/ Và giữa trưa Hà Nội yên lành/ Hồi còi rú thất thanh
Kêu như người tắc họng/ Một xác Việt gian/ Ngã tư/ nắng đọng
Lũ lượt kéo nhau về Hà Nội/ Từng đoàn thiêu thân/ Mang trong mình định mệnh
Mủ đờm nhớt lạnh/ Và uế khí hôi tanh/ Sợ ánh sáng và gió lành
Tôi thành thép/ Cánh tay người Kháng Chiến
Từ vùng tự do/ Có người vào nội thành/ Ném chứng thư Việt Minh
Trên dòng song/ Chào thằng bạn chiến khu/ Mà phục tấm lòng.
Đêm Thủ đô/ Rét đến/ Trong chăn bông
Nghe lạnh chiến khu Vũ/ Cơm gia đình/ Đũa bát nhớ người đi.
Và những sớm mai/ Từng đoàn phi cơ giặc/ Chở tóc tang đầy trong thân sắt
Ra những miền quê xanh
Tiếng bom dội về/ Chuyển Hà Nội mênh mông
Tìm người Hà Nộ/ Rung lên như đất chuyển
– Những người Thủ đô tản cư
– Những đồng bào kháng chiến.
Những em mùa thu/ Đi trong đoàn thiếu nhi
Lớn lên/ Tìm đường chiến khu Việt Bắc.
Những người ngày xưa/ Ghét Việt Minh/ Bắt đầu chờ đợi
Bao giờ Việt Minh/ Mới đánh vào Hà Nội/ Cho ánh sáng xa hoa/ Vỡ rơi thành bóng tối
Trên xác người máu me/ Ngổn ngang gạch ngói?
Đến bao giờ Việt Minh/ Mới đánh vào Hà Nội?
Những người bắt sống Le Page/ và Charton
Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê
Những binh đoàn biên giới
Đang chuyển về Trung Du
Như đi từng dãy núi
Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.
Mắt vời xa/ Cô gái Hà Nội tản cư/ Đẹp trong màu áo vải quê mùa
Sẽ còn những ai/ Trong đoàn quân trở lại
Ngày thủ đô chiến thắng tưng bừng?
Em về Thủ đô/ Chân phố cũ/ Ngập ngừng
Khoảng cuối 1950 - đầu 1951
(Dương Tường & Mạc Lân ghi lại theo trí nhớ. Tác giả Hữu Loan đã xem lại)
Hoa Lúa
Nếu bài Mầu Tím Hoa Sim ông làm để khóc vợ đầu, thì bài Hoa Lúa ông làm để tặng người bạn đời đã sát cánh cùng ông hơn nửa thế kỷ.
“Hữu Loan kết hôn hai lần, lần thứ nhất vào đầu năm 1948 với bà Lê Đỗ Thị Ninh, là con gái của nguyên Tổng thanh tra nông lâm xứ Đông Dương Lê Đỗ Kỷ, Đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946.
Tháng 5 năm 1948, bà Ninh mất khi mới 16 hay 17 tuổi và bài thơ Màu tím hoa sim ra đời. Sau đó ông kết hôn với bà Phạm Thị Nhu, một nông dân, bài thơ Hoa lúa (1955) chính là bài thơ viết tặng người vợ thứ hai này.”
HOA LÚA
Hữu Loan
Em là con gái đồng xanh
Tóc dài vương hoa lúa
Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
Giếng ngọt, cây đa
Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm
Nhạc quê hương say đắm
Trong lời em từng lời
Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một
Em ca giữa đồng xanh bát ngát
Anh nghe quê ta sống lại hội mùa
Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ
Có dân ca quan họ
Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ
Cầm tay trao một miếng trầu
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay
Quê hương ta núi ngất, sông đầy
Bát ngát làng tre, ruộng lúa
Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương
Xa em năm nhớ, gần em mười thương
Còn bàn tay em còn quê hương mãi
Em mang nguồn ân ái
Căng ngực trẻ hai mươi
Và trong mắt biếc nhìn anh
Em gái quê si tình
Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn…
Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt
Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp
Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu
Ta đi đầu sát bên đầu
Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.
(1955)
Màu Tím Hoa Sim
Nói đến bài Màu Tím Hoa Sim, người viết nhờ đến cách đây hơn 5 năm, bài thơ này đã đuợc Giáo sư Thomas D Lê dịch sang Anh ngữ và phổ biến trên trang nhà Lê World vào cuối tháng 11 năm 2004. Nhưng chỉ trong vòng hai tuần tin một doanh nhân ở Việt Nam đã mua đứt bản quyền bài thơ nên bản dịch sau đó đã đuợc chính chủ nhân Le World xóa bỏ ra khỏi trang Le World, dù ông LVC, người mua bản quyền bài thơ đã xác định là vì bài thơ dịch đã hoàn tất trước khi hợp đồng hoàn tất nên không có vấn đề chi. Mọi nỗ lực gửi bài thơ dịch đến ông Hữu Loan cũng không thành công.
Năm năm đã trôi qua, nhà thơ Hữu Loan đã ra đi, bài thơ dịch sang Anh ngữ đã được chính chủ nhân bản dịch mang phổ biến trở lại.
Dưới đây là lưu bút và nguyên tác phần đầu bài thơ do chính ông Hữu Loan đã đọc, viết lại và cho phổ biến.
Thủ bút của nhà thơ Hữu Loan, viết lại bài Màu Tím Hoa Sim, “khóc vợ Lê Ðỗ Thị Ninh.”. (Hình: Viên Linh )
Màu tím hoa sim
(Khóc vợ Lê Đỗ-thị-Ninh)
Nàng có 3 người anh
đi bộ đội
những em nàng
có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
yêu nàng
như tình yêu em gái
ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giầy đinh bết
bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
cưới nhau xong là đi
*
Từ chiến khu xa
nhớ về ái ngại
lấy chồng đời chiến binh
mấy người đi trở lại
nhỡ khi mình không về
thì thương người
vợ chờ
bé bỏng
chiều quê
*
Nhưng không chết
người trai khói lửa
mà chết người
gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
má tôi ngồi bên mộ con
đầy bóng tối
chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh
vây quanh
*
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi ! giây phút cuối
không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần
*
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ
nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa ... !
*
Một chiều rừng mưa
ba người anh,
từ chiến trường Đông Bắc
biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về
rờn rợn nước sông
đứa em nhỏ nhớn lên
ngỡ ngàng
nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng
chân mộ chí
* * *
Chiều hành quân
qua những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
dài
trong chiều không hết
màu tím hoa sim
tím
chiều hoang biền biệt
* * *
Có ai hát như từ chiều
ca dao nào
xưa xa
“Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh chưa có
mẹ già chưa khâu”
* * *
Ai hát vô tình hay
ác ý với nhau
chiều hoang tím
có chiều hoang biết
chiều hoang tím
tím thêm màu da diết
nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà,
vợ anh mất sớm...
* * *
Màu tím hoa sim
tím tình tang
lệ rớm...
* * *
Ráng vàng ma và
sừng rúc điệu quân hành
vang vọng chập chờn
theo bóng những binh đoàn
biền biệt hành binh
vào thăm thẳm
chiều hoang màu tím
* * *
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ
dù lâu...
(Hữu Loan 1949)
Hữu Loan
(Phần bổ túc)
Sóng Việt
Hữu Loan lấy cô Lê Đỗ Thị Ninh ngày 6 tháng 2, 1948.
Hữu Loan đuợc tin cô Ninh chết vì tai nạn ngày 29 tháng 5, 1948.
Hũu Loan làm bài thơ Màu Tím Hoa Sim vào có lẽ vào những tháng đầu của năm 1949.
Nguyễn Bính phổ biến bài thơ Màu Tím Hoa Sim trên báo Trăm Hoa ở Hà-nội vào năm 1956.
Dưới đây là phần trích dẫn bài viết của Violet và Trịnh Hưng đăng trên Vietcyber nói về thời gian Hữu Loan lấy vợ và lý do Hữu Loan gọi mẹ cô Ninh là “má” thay vì là “mẹ”. .
Vì sao có bài Màu Tím Hoa Sim
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Nhà nghèo nhưng chăm học nên ông đỗ được bằng tú tài 1, sau đi dạy ở các trường tư thục để mưu sinh.
Ông tham gia cách mạng từ năm 1936, sau được điều lên làm Uỷ viên văn hoá trong Uỷ ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa.
Từ những ngày đầu kháng chiến, ông phụ trách tờ báo chiến sĩ của Quân khu 4. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, ông được mời ra làm trong ban biên tập văn nghệ.
Bài thơ "Màu tím hoa sim" được Hữu Loan viết năm 1949. Bài thơ tuy chỉ kể chuyện riêng của một người mà hình ảnh và mỹ cảm lại thoát ra khỏi "cái tôi" để đến với nhiều người, tạo nên sự đồng cảm sâu xa, chan hoà trong thế giới tâm linh huyền diệu.
Vào khoảng năm 1937-1938, cậu học trò Hữu Loan rời quê lên tỉnh, học tại trường trung học ở thị xã Thanh Hóa. Tại đây, Hữu Loan làm gia sư tại nhà ông Lê đỗ Kỳ, Tổng thanh tra nông lâm Đông Dương, về sau là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vợ ông Kỳ, bà Đới Thị Ngọc Chất, rất thương yêu Hữu Loan nên nhận làm con nuôi. Còn cô học trò nhỏ Lê Đỗ Thị Ninh lúc đó mới 8 tuổi, kém thầy chừng 13-14 tuổi, rất mến thầy và luôn quấn quít bên thầy.
…
Năm 1941 Hữu Loan lên Hà Nội thi đỗ bán phần tú tài rồi trở về Thanh Hóa dạy hoc. Năm 1947, trong buổi họp khai mạc "Tuần lể vàng", Hữu Loan đọc một bài diễn văn hùng hồn kêu gọi lòng yêu nườc và hy sinh của toàn dân, cô Ninh từ trong hàng ngũ bước ra tháo bỏ vòng xuyến để quyên góp cho chính phủ.
Sau đó Hữu Loan nhập ngũ, phụ trách báo chiến sĩ và vẫn đươc coi như con cái trong nhà ông Kỳ, bà Chất, thỉnh thoảng vẫn đi về thăm cha mẹ nuôi và "em nuôi". Thế rồi tình yêu của Loan đối với cô Ninh chợt đến lúc nào không hay và cha mẹ cô Ninh cũng vun vén vào cho đôi trẻ. Ngày 6-2-1948 một đám cưới đơn giản giữa anh chàng Vệ quốc quân và cô "em nuôi" được tổ chức trong sự vui mừng và tình thân yêu của gia đình và bè bạn…
Ngày 29-5-1948, khi đang là Trưởng ban tuyên huấn của Sư đoàn 304 đóng ở Thọ Xuân, Thanh Hoá, Hữu Loan bỗng được tin sét đánh: Cô Lê Đỗ Thị Ninh đã chết! Nhà thơ Vũ Cao kể: "Tôi còn nhớ cái buổi cách đây đã hơn 40 năm, ngồi trong một quán nhỏ ở Thanh Hóa, anh (Hữu Loan) báo cho tôi biết cái tin đột ngột: Ninh vừa mất. Bàn tay anh cầm cốc nước run lên bần bật, nước bắn tung toé xuống bàn, mặt anh tái xanh.
…
Cái tin sét đánh ấy khiến Nguyễn Hữu Loan tan nát cõi lòng. Nỗi đau dồn nén ấy sang năm sau -1949- thì chín muồi để bật thành lời, thành một bài thơ bất tử.
…
Bài thơ được Hữu Loan cất mãi trong túi áo, cho đến một hôm, Vũ Tiến Đức, biên tập cũ của Hữu Loan, tình cờ lấy được, đem đọc cho bè bạn, cho bà Ngọc Chất nghe, thế là bài thơ được phổ biến nhanh chóng. Về sau Nguyễn Bính đem bài thơ ấy đăng lên báo Trăm Hoa ở Hà Nội (1956) mà tác giả không hề hay biết.
(trích một phần trong bài viết của Violet đăng trong Vietcyber)
Tôi chỉ gặp Hữu Loan có một lần khoảng năm 1992, 1993. Anh cùng tôi đến dự cuộc họp mặt văn nghệ ở nhà một người bạn. Tôi thấy anh vui vẻ, hay cười nhưng không nói nhiều, không tranh nói, không muốn làm người nổi nhất đám, anh em hỏi gì anh mới nói. Tối ấy tôi nhớ anh nói hai chuyện:
một: bà mẹ vợ anh là người Nam, ông Kỳ vào làm việc trong Nam và cưới bà, nên trong Thơ anh "Má tôi ngồi bên mộ con.." chứ không phải "Mẹ tôi..",
hai: khi bài thơ Mầu Tím Hoa Sim được phổ biến trong quân đội, anh bị kiểm thảo vì bài thơ làm mất tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, anh kể trong những cuộc họp, anh bị nhiều văn nghệ sĩ -- như Tô Vũ -- chỉ trích kịch liệt, tối ngủ, chính mấy kẻ chỉ trích anh nặng lời nhất lại mò đến chỗ anh nằm, khều anh, nói nhỏ:" Loan ơi..Thơ mày hay quá. Đọc cho tao chép.."
(trích trong bài viết của Trịnh Hưng đăng trong Vietcyber)
Trong Thi Ca Tình Sử Việt Nam, có lẽ mối tình của Hữu Loan sẽ sống mãi với thời gian.
Những bài thơ khác của Hữu Loan
(Sóng Việt sưu tầm)
Cũng những thằng nịnh hót
Dưới thời kỳ Pháp thuộc
Những thằng nịnh hót nghêng ngang.
Lưng rạp trước quan Tây/ Bắc vợ như thang/ Chân trèo danh vọng;
Đuôi vợ chúng đi/ Lọt theo đầu chúng.
Bao nhiêu nhục nhằn/ Nhục mất nước muôn phần
Nhục cùng nước/ với những thằng nịnh hót
Một điều đau xót/ Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ Dân chủ Cộng hòa
Những thằng nịnh còn thêng thang đất sống
Không quần chùng, áo thụng/ Không thang đàn bà
Nhưng còn / thang lưng/ thang lưỡi.
Những mồm không tanh tưởi, / Ngậm vòi đu đủ
Trợn mắt / Phùng mang/ Thổi vào rốn cấp trên:
" Dạ, dạ, thưa anh,.../ Dạ, dạ, em, em,..."
Gãi cổ/ gãi tai :
" anh quên ngủ / quên ăn / nhiều quá! "
"Anh vì nước / vì dân/ hơn tất cả/ từ trước đến nay. "
Chân xoa/ và xoa tay/ Hít thượng cấp/ cứ thơm / như múi mít.
Gọi như thế là/ phê bình cấp trên / kịch liệt
Gặp cấp trên chủ quan/ Mũi như chim vỗ cánh
Bụnh phềnh như trống làng
Thấy mình đạo đức tài năng hơn tất.
Như thế là chết rồi: Quân nịnh tha hồ lên cấp/ Như con gì nhà gác lên thang.
Còn muốn lên thủ trưởng cơ quan/ Còn đi đây đi đó
Lưỡi và lưng/ Lắm thằng gian khổ
Chúng nói ở đâu/ Thối thóc thuế
Mục kho hang/ Phong trào suy sụp
Nhân dân mất cắp đang giữa ban ngày/ To cánh và to vây,
Những ai không nịnh hót/ Đi, mang cao liêm sỉ con người.
Chúng gieo họa, gieo tai/ kiểm thảo/ hạ tầng.../ ...Còn quy là phản động
Có người đã chết oan vì chúng.
Vẫn thiết tha yêu chế độ,/ đến hơi thở cuối cùng.
Nguy hiểm thay/ Thật khó mà trông/ Chúng nó ngụy trang
Bằng tổ chức, / Bằng quan điềm nhân dân/ bằng lập trường chính sách.
Chúng nó còn thằng nào/ Là chế độ chúng ta chưa sạch/ Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết mọi thằng.
Những người đã đánh bại xăm lăng/ Đỏ bừng mặt vì những tên quốc xỉ/ Ngay giữa thời nô lệ
Là người, chúng ta/ không ai biết/ cúi đầu.
9-1956
Hữu Loan
Nếu Anh Không Đi (1)
Nếu anh ra đi/ Mẹ già anh khóc / Trai thời loạn li/ Thương con khó nhọc
Nếu anh ra đi / Người vị hôn thê / Những giọt nước mắt / Đọng trên hàng mi
Nếu anh không đi / Mẹ già anh khóc / Trai thời loạn li / Mà không ra đi
Mẹ già thương con / tóc trắng / Nhưng mai cờ về / Chiến thắng / mà con không về
Mẹ thà như / lá rụng / chiều quê / Và ngày mai / Con về / Cỏ vàng nấm đất
Nhưng khi nước mất / Vì vị hôn thê / Mà con không đi
Nếu anh không đi / Người vị hôn thê / Mặt nghiêng / tay che / Đêm thương lời thề
Thà đợi người đi / Già / trên lời thề
Nhưng khi nước mất / Trai làng ra đi/ Mà anh không đi!
Hữu Loan
(1950)
(Trong tập 45 bài thơ của Hữu Loan do Nguyễn Hữu Đán sưu tầm)
(1) Dương Tường ghi tên đề tựa là Tòng Quân
Thánh mẫu hài đồng
“Nhà thơ Hữu Loan suốt đời mình luôn khắc ghi hình bóng người vợ đầu. Sau bài thơ Màu tím hoa sim bốn mươi hai năm, ông lại làm bài thơ này hồi tưởng lại đêm tân hôn đầu tiên của mình. Bài thơ vẫn đúng chất hồn và giọng điệu Hữu Loan, đầy ắp cảm giác cảm xúc đôi lứa tình yêu. Đây còn được gọi là bài Tục Màu tím hoa sim.”
Em ngả cánh tay còn nhiều/ ngấn sữa
Cho ta làm gối gối đầu/ đêm tân hôn
Sao lại không chính là tay ta/ đỡ trước lấy vai nàng
Ta râu ria như râu thép gai/ như xương chổi
Gân guốc sù xì phong sương/ như một gốc cây rừng
Ta lo lắng sợ tay nàng gãy
Tay nàng mảnh mai như một/ nhánh huệ trong bình!
Nhưng lạ thay/ nàng ghì đầu ta như/ chẳng hề hấn chuyện gì!
Chỉ có chuyện là/ ta thấy ta càng lúc/ càng thêm nhỏ bé trong/ vào ngực măng tơ
Chà dụi/ Rúc tìm/ Tham lam/ Cuống quýt/Ngẩn ngơ/ như một hài nhi/khát/ mẹ
Nàng càng riết chặt/ ta càng thấy bé
Vòng tay nàng đánh đai/ Nàng thì thào thổn thức/ bên tai
- Anh của em!
- Anh vô cùng lớn của em!
Nhưng trái lại/ Anh đang rất bé.
Nàng:
- Anh ơi anh!
Ta:
- Mẹ ơi mẹ!
Bằng một giọng học nói/ Hài nhi bập bẹ/ (trong hơi thở trộn nhau/ bốc men)
- Tôi đối thoại hay là/ vô thức nói.
*
Sau đêm ấy là/ em đi/ đi/ mãi!
Em đi tím đất chiều hoang
Ta như mất mẹ/ khóc/ tang/ hai lần!
*
Xin kính cẩn hôn chân
Tất cả những đấng gái Việt Nam
Đã sớm mang chất/ mẹ/ loài người.
*
* *
Em trong mẹ/ Mẹ trong em/
Em/ ngôi thánh mẫu hài đồng
Hữu Loan 1991
Kết Luận
Và để kết thúc tưởng không còn chi hay hơn là đọc lại những hàng thơ của chính ông nói về ông.
Tôi, cây gỗ vuông chành chạnh suốt đời
Ðã làm thất bại âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc
thế nào
thì lăn lóc.
Chân lý đấy
hỡi
rìu
bào
phó mộc
Sóng Việt Đàm Giang
04 April 2010
(1916-2010)
Sóng Việt Đàm Giang
Nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, vừa qua đời ngày 18 tháng 3 năm 2010.
Chỉ trong vòng 24 giờ đồng hồ đã có hàng ngàn bài viết trên toàn thế giới nói về ông, và chỉ trong vòng một tuần (ngày 25 tháng 3, 2010) mà những bài viết đã đạt đến mức độ không kể hết.
Nếu mở Google ra và đánh hai chữ Hữu Loan vào thì độc giả có thể thấy trong Google ghi nhận có hơn hai triệu links nói về Hữu Loan và bài thơ đã làm ông nổi tiếng.
Bài thơ được nói đến đã nhiều, chính ông lúc sinh thời đã ngâm bài thơ và được thu âm phát tán đi khắp năm châu.
Vài hàng viết về ông ở đây coi như chút lòng tưởng nhớ và khâm phục ông, một nhà thơ bất khuất , khí khái và có tinh thần rất mạnh.
Những bài thơ được biết đến.
Trước khi Hữu Loan làm bài thơ Mầu Tím Hoa Sim khóc người vợ vắn số chết sớm, ông cũng đã làm một số bài thơ, hầu như những bài thơ của ông không được lưu chép cẩn thận, và hình như ông cũng không cho chuyện lưu trữ thơ là quan trọng. Có lẽ đó là cá tính của ông.
Những bài thơ được biết đến: Cũng những thằng nịnh hót, Đèo Cả, Đêm, Màu tím hoa sim, Hoa lúa, Ngày mai, Thánh mẫu hài đồng, Tình Thủ đô, Yên mô.
Hai ba bài thơ đã được thân hữu quen biết ông chép lại và phổ biến là:
Đèo Cả -1947_ Hữu Loan
Núi cao vút/ Mây trời Ai Lao / sầu / đại dương
Dặm về heo hút / Đá bia mù sương/ Bên quán Hồng Quân/ người / ngựa/ mỏi
Nhìn dốc ngồi than/ thương ai/ lên đường
Chầy ngày/ lạc/ giữa suối
Sau lưng / suối vàng / xanh / tuôn
Dưới khe / bên suối độc / cheo leo/ chòi canh/ ven rừng hoang
Những người/ đi / Nam Tiến
Dừng lại đây/ giữa / đèo núi quê hương
Tóc tai/ trùm/ vai rộng
Không nhận ra/ người làng
Rau khe/ cơm vắt/ áo/ pha màu/ sa trường
Ngày thâu/ vượn hót
Đêm canh/ gặp hùm / lang thang
Gian nan lòng không nhợt
Căm hờn trăm năm xa
Máu thiêng trôi dào dạt
Từ nguồn thiêng ông cha
Giặc/từ trong/ tràn tới
Giặc/từ Vũng Rô/ bắn qua/Đèo Cả/ vẫn/ giữ vững
Chân đèo/ máu giặc/ mấy lần/ nắng khô
Sau mỗi trận thắng
Ngồi bên suối đánh cờ
Kẻ hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu
Suối mang/ bóng người
Trôi những về đâu....
Hữu Loan (1946 ?)
Tình Thủ đô“Được viết vào đầu những năm 50 của thế kỷ trước – chắc chắn là sau chiến dịch biên giới (1950) và trước chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) - với một xu hướng cách tân rõ rệt, trường ca Tình Thủ đô là một trong số những bài thơ tự do hiếm hoi trong Kháng chiến chống Pháp thoát hẳn khỏi ảnh hưởng của dòng Thơ mới (1939 - 1945). Tiết tấu hoạt, gân guốc, câu ngắn (thường chỉ hai, ba âm tiết), sắc gọn như mũi chông, hình tượng bất ngờ cắm phập vào cảm quan: “Đoàn Giải phóng quân đi/ Như gại dao trên đường nhựa... Nắng loá tường vôi/ Chữ cào xương nhức nhối...”, những điểm chấm phá gợi cảm như tranh Seurat: “Mắt em biếc/ Một chiều xưa/ Quan Thánh/ Cổ Ngư/ Bạch Mai/ Bóng liễu/ Tháp Rùa...”. Ngoài giá trị nghệ thuật cao – chuyện này còn phải bàn dài dài khi có dịp - bài thơ còn đặc biệt thân thiết với thế hệ chúng tôi bởi lẽ nói cách nào đó, nó là một phần của cái quá khứ mà bọn tôi vẫn coi là thời hoàng kim của cách mạng. Cùng với những câu thơ, khổ thơ được hồi nhớ, những kỷ niệm cũng trỗi dậy, chúng tôi như sống lại cả một thuở xa xưa”….
Trên những chuyến xe bò/ Đi về đường Trèm Vẽ
Việt Bắc âm u/ Đường dài Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư/ Đoàn xe đi
Chở nặng tâm tư/ Một góc nhà/ Một hè phố
Mắt em biếc/ Một chiều xưa
Quan Thánh/ Cổ Ngư/ Bạch Mai/ Bóng liễu Tháp Rùa
Một thằng bạn/ Một thằng con/ ở lại
Khấp khểnh xe đi/ Vấp vào đêm tối
Thủ đô/ Ngày mùa thu
Thủ đô/ Cờ bốc lửa/ phố dài
Cờ bốc lửa/ công trường Nhà Hát lớn.
Thủ đô/ Ngày Tổng Khởi Nghĩa
Ngày Thủ đô chờ đón/ Đoàn Giải phóng quân về
Qua cầu Long Biên/ Sông bóng người đi
Vai cao rộng/ Mặc núi rừng Việt Bắc
Ai về Thủ đô/ Khăn thầm nước mắt
Quốc ca mình/ Đoàn lính Việt đầu tiên
- Có người làng đi/ Trong đoàn lính trẻ.
Thủ đô/ Tuần Lễ Vàng
Hà Nội dãy dọc toà ngang
Quên giai cấp/ Trong căm thù dân tộc
Thủ đô/ Ngày Tuyên Ngôn Độc Lập
Thủ đô/ Ngày Tổng Tuyển Cử đầu tiên
Những ngày Thủ đô/ Như ộc máu triền miên
Máu những người Tây giết/ Chảy về từ lịch sử
Tiếng hát/ Vùng lên/ Xích xiềng rơi vỡ.
Thủ đô/ Ngày Tàu trắng/ Quốc dân đảng
Và thực dân/ Nghênh ngang phố chật
Bắt cóc/ Tống tiền/ Khiêu khích/ Bắn người
Đám ma đi/ Cờ đỏ phủ quan tài
Phố Ôn Như Hầu/ Những người bị giết/ Xác quăng đầy hố
Đoàn Giải phóng quân đi/ Như gại dao trên đường nhựa.
Thủ đô/ Quân lệnh đêm
Lựu đạn đen ngòm trong nắm tay
Rình sau mái ngói
Nắng loé tường vôi/ Chữ cào xương nhức nhối:
Thanh Niên Sống Chết Với Thủ Đô!
Mắt em thiếu nhi/ Hồ trăng Trung Thu:
Các anh hãy giữ non song/ Cho chúng em!
Bàn tay lớn/ Nhận lòng tin bé nhỏ.
Cụ Hồ hỏi anh em bộ đội:– Các chú liệu giữ được Thủ đô
Bảy ngày?Một rừng nắm tay
Thét tiếng:– Thề với Bác!
Lửa cháy Thủ đô/ Chân trời hấp hối
Xác thằng bạn/ Xác thằng con
Trên hè phố Thủ đô/ Giặc khởi hấn rồi!
Đường tản cư khuya/ Lửa toé sắt bánh xe bò
Một Quyết tử quân hy sinh/ Là một đoàn giặc chết/ Một Quyết tử quân hy sinh
Và bắt đầu từ đó/ Những ngày đêm Thủ đô
Tàn sát/ Khu Đồng Xuân/ Lính Trung đoàn Thủ Đô
Đâm giặc trên bàn thịt/ Như chọc tiết bò
Đuổi giặc/ Vật lăn trên nóc chợ
Hai tháng giết nhau/ Một đêm thủ đô
Có đoàn Quyết tử/ Cắt máu tay ăn thề
Ngõ vắng Thủ đô/ Những đơn vị rút đi
Góc phố Thủ đô/ Bóng những người ở lại/ ánh hoàng hôn lên
Liệm tròn huyết thệ/ Người Quyết tử quân/ cuối cùng.
Những người dân Thủ đô/ Về với giặc ở chung
Phải đốt cờ đỏ sao vàng/ Thức đêm may cờ ba sắc
Và những sớm mai/ Tay xót xa/ Đem treo cờ giặc trước nhà
Ai về Hà Nội/ Thấy Hà Nội xa hoa
Thấy Hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội/ Giặc xây thêm ngục tù
Xe Phòng Nhì/ Chở từ ngoại ô/ Từng đoàn người xiềng tay/ Về qua phố tối.
Ai về Hà Nội/ Thấy Hà Nội xa hoa/ Thấy Hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội Ngã-Tư-Sở/ Hà Nội Khâm-Thiên
Đèn khuya chảy vàng/ Những hộp đêm/ Mọc theo tiếng giày đinh
Của đoàn Tây mũ đỏ/ Tiếng xe tăng viễn chinh
Chiều đi bụi phố/ Và giữa trưa Hà Nội yên lành/ Hồi còi rú thất thanh
Kêu như người tắc họng/ Một xác Việt gian/ Ngã tư/ nắng đọng
Lũ lượt kéo nhau về Hà Nội/ Từng đoàn thiêu thân/ Mang trong mình định mệnh
Mủ đờm nhớt lạnh/ Và uế khí hôi tanh/ Sợ ánh sáng và gió lành
Tôi thành thép/ Cánh tay người Kháng Chiến
Từ vùng tự do/ Có người vào nội thành/ Ném chứng thư Việt Minh
Trên dòng song/ Chào thằng bạn chiến khu/ Mà phục tấm lòng.
Đêm Thủ đô/ Rét đến/ Trong chăn bông
Nghe lạnh chiến khu Vũ/ Cơm gia đình/ Đũa bát nhớ người đi.
Và những sớm mai/ Từng đoàn phi cơ giặc/ Chở tóc tang đầy trong thân sắt
Ra những miền quê xanh
Tiếng bom dội về/ Chuyển Hà Nội mênh mông
Tìm người Hà Nộ/ Rung lên như đất chuyển
– Những người Thủ đô tản cư
– Những đồng bào kháng chiến.
Những em mùa thu/ Đi trong đoàn thiếu nhi
Lớn lên/ Tìm đường chiến khu Việt Bắc.
Những người ngày xưa/ Ghét Việt Minh/ Bắt đầu chờ đợi
Bao giờ Việt Minh/ Mới đánh vào Hà Nội/ Cho ánh sáng xa hoa/ Vỡ rơi thành bóng tối
Trên xác người máu me/ Ngổn ngang gạch ngói?
Đến bao giờ Việt Minh/ Mới đánh vào Hà Nội?
Những người bắt sống Le Page/ và Charton
Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê
Những binh đoàn biên giới
Đang chuyển về Trung Du
Như đi từng dãy núi
Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.
Mắt vời xa/ Cô gái Hà Nội tản cư/ Đẹp trong màu áo vải quê mùa
Sẽ còn những ai/ Trong đoàn quân trở lại
Ngày thủ đô chiến thắng tưng bừng?
Em về Thủ đô/ Chân phố cũ/ Ngập ngừng
Khoảng cuối 1950 - đầu 1951
(Dương Tường & Mạc Lân ghi lại theo trí nhớ. Tác giả Hữu Loan đã xem lại)
Hoa Lúa
Nếu bài Mầu Tím Hoa Sim ông làm để khóc vợ đầu, thì bài Hoa Lúa ông làm để tặng người bạn đời đã sát cánh cùng ông hơn nửa thế kỷ.
“Hữu Loan kết hôn hai lần, lần thứ nhất vào đầu năm 1948 với bà Lê Đỗ Thị Ninh, là con gái của nguyên Tổng thanh tra nông lâm xứ Đông Dương Lê Đỗ Kỷ, Đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946.
Tháng 5 năm 1948, bà Ninh mất khi mới 16 hay 17 tuổi và bài thơ Màu tím hoa sim ra đời. Sau đó ông kết hôn với bà Phạm Thị Nhu, một nông dân, bài thơ Hoa lúa (1955) chính là bài thơ viết tặng người vợ thứ hai này.”
HOA LÚA
Hữu Loan
Em là con gái đồng xanh
Tóc dài vương hoa lúa
Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
Giếng ngọt, cây đa
Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm
Nhạc quê hương say đắm
Trong lời em từng lời
Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một
Em ca giữa đồng xanh bát ngát
Anh nghe quê ta sống lại hội mùa
Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ
Có dân ca quan họ
Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ
Cầm tay trao một miếng trầu
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay
Quê hương ta núi ngất, sông đầy
Bát ngát làng tre, ruộng lúa
Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương
Xa em năm nhớ, gần em mười thương
Còn bàn tay em còn quê hương mãi
Em mang nguồn ân ái
Căng ngực trẻ hai mươi
Và trong mắt biếc nhìn anh
Em gái quê si tình
Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn…
Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt
Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp
Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu
Ta đi đầu sát bên đầu
Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.
(1955)
Màu Tím Hoa Sim
Nói đến bài Màu Tím Hoa Sim, người viết nhờ đến cách đây hơn 5 năm, bài thơ này đã đuợc Giáo sư Thomas D Lê dịch sang Anh ngữ và phổ biến trên trang nhà Lê World vào cuối tháng 11 năm 2004. Nhưng chỉ trong vòng hai tuần tin một doanh nhân ở Việt Nam đã mua đứt bản quyền bài thơ nên bản dịch sau đó đã đuợc chính chủ nhân Le World xóa bỏ ra khỏi trang Le World, dù ông LVC, người mua bản quyền bài thơ đã xác định là vì bài thơ dịch đã hoàn tất trước khi hợp đồng hoàn tất nên không có vấn đề chi. Mọi nỗ lực gửi bài thơ dịch đến ông Hữu Loan cũng không thành công.
Năm năm đã trôi qua, nhà thơ Hữu Loan đã ra đi, bài thơ dịch sang Anh ngữ đã được chính chủ nhân bản dịch mang phổ biến trở lại.
Dưới đây là lưu bút và nguyên tác phần đầu bài thơ do chính ông Hữu Loan đã đọc, viết lại và cho phổ biến.
Thủ bút của nhà thơ Hữu Loan, viết lại bài Màu Tím Hoa Sim, “khóc vợ Lê Ðỗ Thị Ninh.”. (Hình: Viên Linh )
Màu tím hoa sim
(Khóc vợ Lê Đỗ-thị-Ninh)
Nàng có 3 người anh
đi bộ đội
những em nàng
có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
yêu nàng
như tình yêu em gái
ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giầy đinh bết
bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
cưới nhau xong là đi
*
Từ chiến khu xa
nhớ về ái ngại
lấy chồng đời chiến binh
mấy người đi trở lại
nhỡ khi mình không về
thì thương người
vợ chờ
bé bỏng
chiều quê
*
Nhưng không chết
người trai khói lửa
mà chết người
gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
má tôi ngồi bên mộ con
đầy bóng tối
chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh
vây quanh
*
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi ! giây phút cuối
không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần
*
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ
nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa ... !
*
Một chiều rừng mưa
ba người anh,
từ chiến trường Đông Bắc
biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về
rờn rợn nước sông
đứa em nhỏ nhớn lên
ngỡ ngàng
nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng
chân mộ chí
* * *
Chiều hành quân
qua những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
dài
trong chiều không hết
màu tím hoa sim
tím
chiều hoang biền biệt
* * *
Có ai hát như từ chiều
ca dao nào
xưa xa
“Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh chưa có
mẹ già chưa khâu”
* * *
Ai hát vô tình hay
ác ý với nhau
chiều hoang tím
có chiều hoang biết
chiều hoang tím
tím thêm màu da diết
nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà,
vợ anh mất sớm...
* * *
Màu tím hoa sim
tím tình tang
lệ rớm...
* * *
Ráng vàng ma và
sừng rúc điệu quân hành
vang vọng chập chờn
theo bóng những binh đoàn
biền biệt hành binh
vào thăm thẳm
chiều hoang màu tím
* * *
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ
dù lâu...
(Hữu Loan 1949)
Hữu Loan
(Phần bổ túc)
Sóng Việt
Hữu Loan lấy cô Lê Đỗ Thị Ninh ngày 6 tháng 2, 1948.
Hữu Loan đuợc tin cô Ninh chết vì tai nạn ngày 29 tháng 5, 1948.
Hũu Loan làm bài thơ Màu Tím Hoa Sim vào có lẽ vào những tháng đầu của năm 1949.
Nguyễn Bính phổ biến bài thơ Màu Tím Hoa Sim trên báo Trăm Hoa ở Hà-nội vào năm 1956.
Dưới đây là phần trích dẫn bài viết của Violet và Trịnh Hưng đăng trên Vietcyber nói về thời gian Hữu Loan lấy vợ và lý do Hữu Loan gọi mẹ cô Ninh là “má” thay vì là “mẹ”. .
Vì sao có bài Màu Tím Hoa Sim
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Nhà nghèo nhưng chăm học nên ông đỗ được bằng tú tài 1, sau đi dạy ở các trường tư thục để mưu sinh.
Ông tham gia cách mạng từ năm 1936, sau được điều lên làm Uỷ viên văn hoá trong Uỷ ban lâm thời tỉnh Thanh Hóa.
Từ những ngày đầu kháng chiến, ông phụ trách tờ báo chiến sĩ của Quân khu 4. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, ông được mời ra làm trong ban biên tập văn nghệ.
Bài thơ "Màu tím hoa sim" được Hữu Loan viết năm 1949. Bài thơ tuy chỉ kể chuyện riêng của một người mà hình ảnh và mỹ cảm lại thoát ra khỏi "cái tôi" để đến với nhiều người, tạo nên sự đồng cảm sâu xa, chan hoà trong thế giới tâm linh huyền diệu.
Vào khoảng năm 1937-1938, cậu học trò Hữu Loan rời quê lên tỉnh, học tại trường trung học ở thị xã Thanh Hóa. Tại đây, Hữu Loan làm gia sư tại nhà ông Lê đỗ Kỳ, Tổng thanh tra nông lâm Đông Dương, về sau là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vợ ông Kỳ, bà Đới Thị Ngọc Chất, rất thương yêu Hữu Loan nên nhận làm con nuôi. Còn cô học trò nhỏ Lê Đỗ Thị Ninh lúc đó mới 8 tuổi, kém thầy chừng 13-14 tuổi, rất mến thầy và luôn quấn quít bên thầy.
…
Năm 1941 Hữu Loan lên Hà Nội thi đỗ bán phần tú tài rồi trở về Thanh Hóa dạy hoc. Năm 1947, trong buổi họp khai mạc "Tuần lể vàng", Hữu Loan đọc một bài diễn văn hùng hồn kêu gọi lòng yêu nườc và hy sinh của toàn dân, cô Ninh từ trong hàng ngũ bước ra tháo bỏ vòng xuyến để quyên góp cho chính phủ.
Sau đó Hữu Loan nhập ngũ, phụ trách báo chiến sĩ và vẫn đươc coi như con cái trong nhà ông Kỳ, bà Chất, thỉnh thoảng vẫn đi về thăm cha mẹ nuôi và "em nuôi". Thế rồi tình yêu của Loan đối với cô Ninh chợt đến lúc nào không hay và cha mẹ cô Ninh cũng vun vén vào cho đôi trẻ. Ngày 6-2-1948 một đám cưới đơn giản giữa anh chàng Vệ quốc quân và cô "em nuôi" được tổ chức trong sự vui mừng và tình thân yêu của gia đình và bè bạn…
Ngày 29-5-1948, khi đang là Trưởng ban tuyên huấn của Sư đoàn 304 đóng ở Thọ Xuân, Thanh Hoá, Hữu Loan bỗng được tin sét đánh: Cô Lê Đỗ Thị Ninh đã chết! Nhà thơ Vũ Cao kể: "Tôi còn nhớ cái buổi cách đây đã hơn 40 năm, ngồi trong một quán nhỏ ở Thanh Hóa, anh (Hữu Loan) báo cho tôi biết cái tin đột ngột: Ninh vừa mất. Bàn tay anh cầm cốc nước run lên bần bật, nước bắn tung toé xuống bàn, mặt anh tái xanh.
…
Cái tin sét đánh ấy khiến Nguyễn Hữu Loan tan nát cõi lòng. Nỗi đau dồn nén ấy sang năm sau -1949- thì chín muồi để bật thành lời, thành một bài thơ bất tử.
…
Bài thơ được Hữu Loan cất mãi trong túi áo, cho đến một hôm, Vũ Tiến Đức, biên tập cũ của Hữu Loan, tình cờ lấy được, đem đọc cho bè bạn, cho bà Ngọc Chất nghe, thế là bài thơ được phổ biến nhanh chóng. Về sau Nguyễn Bính đem bài thơ ấy đăng lên báo Trăm Hoa ở Hà Nội (1956) mà tác giả không hề hay biết.
(trích một phần trong bài viết của Violet đăng trong Vietcyber)
Tôi chỉ gặp Hữu Loan có một lần khoảng năm 1992, 1993. Anh cùng tôi đến dự cuộc họp mặt văn nghệ ở nhà một người bạn. Tôi thấy anh vui vẻ, hay cười nhưng không nói nhiều, không tranh nói, không muốn làm người nổi nhất đám, anh em hỏi gì anh mới nói. Tối ấy tôi nhớ anh nói hai chuyện:
một: bà mẹ vợ anh là người Nam, ông Kỳ vào làm việc trong Nam và cưới bà, nên trong Thơ anh "Má tôi ngồi bên mộ con.." chứ không phải "Mẹ tôi..",
hai: khi bài thơ Mầu Tím Hoa Sim được phổ biến trong quân đội, anh bị kiểm thảo vì bài thơ làm mất tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, anh kể trong những cuộc họp, anh bị nhiều văn nghệ sĩ -- như Tô Vũ -- chỉ trích kịch liệt, tối ngủ, chính mấy kẻ chỉ trích anh nặng lời nhất lại mò đến chỗ anh nằm, khều anh, nói nhỏ:" Loan ơi..Thơ mày hay quá. Đọc cho tao chép.."
(trích trong bài viết của Trịnh Hưng đăng trong Vietcyber)
Trong Thi Ca Tình Sử Việt Nam, có lẽ mối tình của Hữu Loan sẽ sống mãi với thời gian.
Những bài thơ khác của Hữu Loan
(Sóng Việt sưu tầm)
Cũng những thằng nịnh hót
Dưới thời kỳ Pháp thuộc
Những thằng nịnh hót nghêng ngang.
Lưng rạp trước quan Tây/ Bắc vợ như thang/ Chân trèo danh vọng;
Đuôi vợ chúng đi/ Lọt theo đầu chúng.
Bao nhiêu nhục nhằn/ Nhục mất nước muôn phần
Nhục cùng nước/ với những thằng nịnh hót
Một điều đau xót/ Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ Dân chủ Cộng hòa
Những thằng nịnh còn thêng thang đất sống
Không quần chùng, áo thụng/ Không thang đàn bà
Nhưng còn / thang lưng/ thang lưỡi.
Những mồm không tanh tưởi, / Ngậm vòi đu đủ
Trợn mắt / Phùng mang/ Thổi vào rốn cấp trên:
" Dạ, dạ, thưa anh,.../ Dạ, dạ, em, em,..."
Gãi cổ/ gãi tai :
" anh quên ngủ / quên ăn / nhiều quá! "
"Anh vì nước / vì dân/ hơn tất cả/ từ trước đến nay. "
Chân xoa/ và xoa tay/ Hít thượng cấp/ cứ thơm / như múi mít.
Gọi như thế là/ phê bình cấp trên / kịch liệt
Gặp cấp trên chủ quan/ Mũi như chim vỗ cánh
Bụnh phềnh như trống làng
Thấy mình đạo đức tài năng hơn tất.
Như thế là chết rồi: Quân nịnh tha hồ lên cấp/ Như con gì nhà gác lên thang.
Còn muốn lên thủ trưởng cơ quan/ Còn đi đây đi đó
Lưỡi và lưng/ Lắm thằng gian khổ
Chúng nói ở đâu/ Thối thóc thuế
Mục kho hang/ Phong trào suy sụp
Nhân dân mất cắp đang giữa ban ngày/ To cánh và to vây,
Những ai không nịnh hót/ Đi, mang cao liêm sỉ con người.
Chúng gieo họa, gieo tai/ kiểm thảo/ hạ tầng.../ ...Còn quy là phản động
Có người đã chết oan vì chúng.
Vẫn thiết tha yêu chế độ,/ đến hơi thở cuối cùng.
Nguy hiểm thay/ Thật khó mà trông/ Chúng nó ngụy trang
Bằng tổ chức, / Bằng quan điềm nhân dân/ bằng lập trường chính sách.
Chúng nó còn thằng nào/ Là chế độ chúng ta chưa sạch/ Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết mọi thằng.
Những người đã đánh bại xăm lăng/ Đỏ bừng mặt vì những tên quốc xỉ/ Ngay giữa thời nô lệ
Là người, chúng ta/ không ai biết/ cúi đầu.
9-1956
Hữu Loan
Nếu Anh Không Đi (1)
Nếu anh ra đi/ Mẹ già anh khóc / Trai thời loạn li/ Thương con khó nhọc
Nếu anh ra đi / Người vị hôn thê / Những giọt nước mắt / Đọng trên hàng mi
Nếu anh không đi / Mẹ già anh khóc / Trai thời loạn li / Mà không ra đi
Mẹ già thương con / tóc trắng / Nhưng mai cờ về / Chiến thắng / mà con không về
Mẹ thà như / lá rụng / chiều quê / Và ngày mai / Con về / Cỏ vàng nấm đất
Nhưng khi nước mất / Vì vị hôn thê / Mà con không đi
Nếu anh không đi / Người vị hôn thê / Mặt nghiêng / tay che / Đêm thương lời thề
Thà đợi người đi / Già / trên lời thề
Nhưng khi nước mất / Trai làng ra đi/ Mà anh không đi!
Hữu Loan
(1950)
(Trong tập 45 bài thơ của Hữu Loan do Nguyễn Hữu Đán sưu tầm)
(1) Dương Tường ghi tên đề tựa là Tòng Quân
Thánh mẫu hài đồng
“Nhà thơ Hữu Loan suốt đời mình luôn khắc ghi hình bóng người vợ đầu. Sau bài thơ Màu tím hoa sim bốn mươi hai năm, ông lại làm bài thơ này hồi tưởng lại đêm tân hôn đầu tiên của mình. Bài thơ vẫn đúng chất hồn và giọng điệu Hữu Loan, đầy ắp cảm giác cảm xúc đôi lứa tình yêu. Đây còn được gọi là bài Tục Màu tím hoa sim.”
Em ngả cánh tay còn nhiều/ ngấn sữa
Cho ta làm gối gối đầu/ đêm tân hôn
Sao lại không chính là tay ta/ đỡ trước lấy vai nàng
Ta râu ria như râu thép gai/ như xương chổi
Gân guốc sù xì phong sương/ như một gốc cây rừng
Ta lo lắng sợ tay nàng gãy
Tay nàng mảnh mai như một/ nhánh huệ trong bình!
Nhưng lạ thay/ nàng ghì đầu ta như/ chẳng hề hấn chuyện gì!
Chỉ có chuyện là/ ta thấy ta càng lúc/ càng thêm nhỏ bé trong/ vào ngực măng tơ
Chà dụi/ Rúc tìm/ Tham lam/ Cuống quýt/Ngẩn ngơ/ như một hài nhi/khát/ mẹ
Nàng càng riết chặt/ ta càng thấy bé
Vòng tay nàng đánh đai/ Nàng thì thào thổn thức/ bên tai
- Anh của em!
- Anh vô cùng lớn của em!
Nhưng trái lại/ Anh đang rất bé.
Nàng:
- Anh ơi anh!
Ta:
- Mẹ ơi mẹ!
Bằng một giọng học nói/ Hài nhi bập bẹ/ (trong hơi thở trộn nhau/ bốc men)
- Tôi đối thoại hay là/ vô thức nói.
*
Sau đêm ấy là/ em đi/ đi/ mãi!
Em đi tím đất chiều hoang
Ta như mất mẹ/ khóc/ tang/ hai lần!
*
Xin kính cẩn hôn chân
Tất cả những đấng gái Việt Nam
Đã sớm mang chất/ mẹ/ loài người.
*
* *
Em trong mẹ/ Mẹ trong em/
Em/ ngôi thánh mẫu hài đồng
Hữu Loan 1991
Kết Luận
Và để kết thúc tưởng không còn chi hay hơn là đọc lại những hàng thơ của chính ông nói về ông.
Tôi, cây gỗ vuông chành chạnh suốt đời
Ðã làm thất bại âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc
thế nào
thì lăn lóc.
Chân lý đấy
hỡi
rìu
bào
phó mộc
Sóng Việt Đàm Giang
04 April 2010
Subscribe to:
Posts (Atom)