Cây Sưa Hoa Sưa Gỗ Sưa
Đàm Giang thu thập và biên soạn.
Cây sưa gồm có hai loài: Sưa đỏ và sưa
trắng.
Cây sưa đỏ có tên khoa học Dalbergia tonkinensis Prain Fabaceae nhưng
thường được gọi là trắc thối, huê mộc vàng, trắc hoa trắng hay còn được biết đến
là Huỳnh đàn, Trung Quốc thì họ gọi cây này là Hoàng Đàn hay hoàng hoa lê.
Cây sưa trắng tên khoa học Milletia ichthyochtona Drake Fabaceae lúc trước
ở miền Bắc gọi nó là cây thàn mát trồng rất nhiều ở Hà-Nội.
Phân Biệt Cây Sưa Đỏ (huỳnh đàn/trắc thối) Và Cây Sưa
Trắng (Thàn mát)
Dù 2 cây tên nghe có vẻ giống nhau
nhưng đặc điểm lại khác nhau hoàn toàn:
Thân Cây.
Cây sưa đỏ huỳnh đàn / trắc thối Bắc bộ có vỏ dày, sần sùi,
nứt sâu.Vỏ ngoài màu vàng nâu, nút dọc, có khi bong từng mảng lớn. Là
loài đặc hữu của Đông Dương và Việt Nam: từ Quảng Nam (Hiên, Giằng, Phước Sơn)
trở vào đến Tây Ninh (Tân Biên), Đồng Nai (Thống Nhất, Trảng Bom), Kiên Giang.
Tập trung nhất ở Kon Tum (Đắc Tô, Sa Thầy).
Lá.
Các nhà vườn
phân biệt hai loài sưa này bằng cách quan sát lá:
sưa trắng lá mềm xanh mướt, 2 lá chét mọc đối nhau,
sưa đỏ 2 lá mọc cách so le với nhau.
Hoa.
Cây
sưa đỏ huỳnh đàn có hoa màu vàng nhạt hoặc trắng vàng. Hoa xuất hiện sau khi ra
lá non tháng 3-5.
Cây
sưa trắng thàn mát hoa màu trắng tinh. Hoa xuất hiện trước khi ra lá non. Tháng
2-4.
Quả.
Cây
sưa đỏ có quả đậu kết thành từng chùm,
có cánh mềm, không có mũi nhọn. Hạt có mùi thối khi bị đốt lên
có mùi thối nên sưa đỏ còn được gọi là sưa trắc thối.
Cây
sưa trắng quả đậu to, có vỏ hóa gỗ rất cứng, đỉnh nhọn như lưỡi dao. Hạt độc,
không có mùi thối khi bị đốt.
Công
Dụng Của Gỗ Cây Sưa
Gỗ
cây sưa đỏ Huỳnh đàn (trắc thối) khi đốt tàn có màu trắng
đục, mùi khó chịu nên được gọi là Trắc thối.
Gỗ sưa thớ mịn, vừa cứng
lại vừa dẻo, có nhiều vân thớ gỗ đẹp. Thời phong kiến vua chúa dùng
gỗ trắc thối để đóng đồ nội thất cao cấp trong cung đình vì nó vừa là hương liệu
vừa là dược liệu. Gỗ sưa đỏ được dùng làm chuỗi tràng hạt và vòng đeo cổ tay rất đẹp.
Gỗ
cây sưa trắng Thàn mát không quý.
Riêng
cây sưa vàng ở Quảng Nam không phải là cây sưa.
Sưa vàng ở Quảng Nam trước đây nó được người dân miền Trung gọi là cây hương vườn,
thật sự cây này không phải là cây sưa mà
cây Hương vườn cùng chi với cây giáng
hương quả to và giáng hương mắt chim, không phải loại gỗ quý như sưa trắng ở
phía Bắc. Khoảng 10 năm nay, thành phố Tam Kỳ mang sưa vàng về trồng nhiều nơi
trong đô thị, tạo thành nên những “con đường sưa” như Phan Bội Châu, Trần Cao
Vân, Trần Hưng Đạo... Nhiều khuôn viên cơ quan công sở cũng trồng sưa lấy bóng
mát. Và nay dân tỉnh gọi nó là sưa vàng.
Cây sưa vàng Quảng Nam được người dân địa phương gọi
bằng nhiều tên khác nhau: sưa, sưa vườn, hương vườn; nhưng chính xác nhất phải
gọi là cây hương vườn. Đây là một loài cùng chi với giáng hương quả to và giáng
hương mắt chim, đó là chi Pterocarpus. Giáng hương quả to (Pterocarpus
macrocarpus Kurz.) còn được gọi gọn là giáng hương (Pterocarpus pedatus
Pierre), hay giáng hương Căm-Bốt (Pterocarpus cambodianus Pierre), họ Đậu Fabaceae.
Cây hương vườn Quảng Nam hoàn toàn không phải là cây
sưa Bắc Bộ (còn gọi là cây huê mộc vàng), hương vườn có thể phân biệt dễ dàng
qua hình thái quả. Quả cây hương vườn
Quảng Nam có mép quả bẹt thành cánh, và uốn cong dạng đĩa bay, có 2 - 3 hạt tập
trung ở tâm thành một u lồi, bên ngoài có nhiều lông gai.
Quả cây sưa dạng quả đậu, vỏ hơi bẹt thành cánh,
thường chứa một hạt, ít khi hai hạt.
Thường
sau khi qua Tết bắt đầu mùa hè là lúc hoa sưa vàng nở rộ. Những chùm hoa vàng
che khất cả tán lá
Sưa
vàng có đặc điểm là tán rộng, thân hợp trục với phía ngọn, cành nhánh dẻo và
khó đỗ, khó gãy, quả không có thịt.
Mùa
mưa thì cây lại rụng hết lá nên không bị đổ ngã do mưa bão.
Giống
như sưa trắng thì sưa vàng chỉ có giá trị về mặt cảnh quan đô thị và cũng không
có giá trị về mặt kinh tế.
Hình ảnh và tài liệu thu thập từ Wikipedia và trang Phongthuyguru.