Thursday, August 27, 2020

Les Halles. Forum des Halles. SVĐG




LES HALLES. 
FORUM des HALLES.

Nằm ở giữa Paris, trong khu vực mang danh Les Halles, có Forum des Halles: một trung tâm thương mại  dưới lòng đất gồm nhiều cửa hàng, tiệm ăn, hai rạp chiếu bóng, một trung tâm thể thao và sân sinh hoạt. 


                                                             Hình Internet

 Les Halls là một phức hợp thương mãi với nhiều cửa hàng nằm dọc theo phố Rivoli, Tán/Canopée  du Forum des Halles với  Forum des Halles dưới lòng đất.
Khai trương vào đầu tháng 4, 2016, và tu sửa thêm vào năm 2018, phức hợp Les Halls hiện diện với một cái tán cao được thiết kế bởi các kiến ​​trúc sư Patrick Berger và Jacques Anziutti bao phủ Forum des Halles.



Cấu trúc của tán cây cao 36 feet so với mặt đất được cho là lấy cảm hứng từ thảm thực vật, bao phủ một khu vực xây dựng 396 feet x 462 feet và mở ra khu vườn rộng gần 11 mẫu Anh.
Với diện tích 75.000 feet vuông, nó có kích thước tương đương với Place des Vosges lịch sử ở Marais gần đó.
Vật liệu và chi phí: 7,000 tấn thép và 18,000 tấm kính, ở mức 238 triệu euro, tương đương khoảng 269 triệu đô la, cho cấu trúc và cỡ 400,000 euro một năm cho bảo trì.

Forum des Halles, một trung tâm thương mại và mua sắm nhiều tầng dưới lòng đất, được thiết kế bởi Claude Vasconi và Georges Pencreac'h, mở cửa vào ngày 4 tháng 9 năm 1979 và hiện diện cho tới ngày nay. Một khu vườn công cộng rộng bốn mẫu mở cửa vào năm 1986 cảnh trí đẹp Nhiều đường phố xung quanh đã được dành cho người đi bộ.


                                                              Hình Internet
Trong quá khứ,  Les Halles một trung tâm bán thực phẩm tươi sống của Paris ngày trước. Nó bị phá bỏ vào năm 1971 và được thay thế bằng Westfield Forum des Halles (Westflied là tên chủ nhân ông của phức hợp này), hoàn tất vào năm 1979 trên vị trí của chợ cũ. Đây là một trung tâm mua sắm hiện đại được xây dựng phần lớn dưới lòng đất . chiếm một diện tích 60,000 mét vuông, có bãi đậu xe lớn chứa 2,100 chỗ. và kết nối trực tiếp với hệ thống RER lớn trung tâm tàu điện ngầm metro M của Châtelet-Les-Halles.

Khi  khu forum cuối cùng được thị trưởng thành phố Jacques Chirac khánh thành vào năm 1981 hầu hết việc xây dựng đều nằm dưới mực mặt đất, đặc biệt là với một nhà ga khổng lồ phục vụ hệ thống tàu điện ngầm và R.E.R. mạng lưới tàu điện từng khu vực. Năm tầng cửa hàng được nối với nhau bằng thang cuốn. Ngoài các cửa tiệm nằm trong lòng đất và dưới Tán, các tòa nhà trên mặt đất bao gồm một bảo tàng nhỏ, các cửa hàng khác và một quảng trường kề bên.




Châtelet -Les Halles là một trung tâm xe điện lớn ở Paris và là một trong những ga tàu điện ngầm lớn nhất trên thế giới. Khai trương vào năm 1977, nó là trung tâm giao thông cho khu vực đô thị Île-de-France, kết nối ba trong số năm tuyến đường sắt đi lại RER và năm trong số mười sáu tuyến Métro. Nó được đặt tên theo quảng trường công cộng Place du Châtelet gần đó và Forum des Halles, một trung tâm mua sắm.

Về mặt hình thức, tên Châtelet-Les Halles chỉ riêng trạm RER. Về mặt chính thức, thì  trung tâm bao gồm trạm RER  (lưu trữ các tuyến A, B và D) cộng với các ga Paris Métro liền kề Châtelet (tuyến 1, 4, 7, 11 và 14) và Les Halles (tuyến 4).


Nhà thờ Thánh Eustache  (L’église Saint-Eustache) được xây dựng từ năm 1532 đến năm 1632. Nhà thờ Saint-Eustache thể hiện sự pha trộn của nhiều kiểu kiến ​​trúc tổng hợp giữa Gothic, Phục hưng và cổ điển. Trong nhà thờ có cây đàn organ được biết như là một trong những đàn organ lớn nhất của Pháp với gần 8,000 pipes.


Nằm ở gần khu chợ thời trung cổ của Paris Les Halles  và rue Montorgueil, một khu vực của Paris từng là nơi có chợ thực phẩm lớn nhất đất nước, nguồn gốc của Saint Eustache có từ thế kỷ 13. Đó là một nhà nguyện khiêm tốn được xây dựng vào năm 1213, dành riêng cho Thánh Agnes, một vị tử đạo La Mã. Nhà nguyện trở thành nhà thờ giáo xứ của khu vực Les Halles vào năm 1223 và được đổi tên thành Saint-Eustache vào năm 1303. Eustache, tên của nhà thờ,  một vị tướng La Mã vào thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, ông đã bị hỏa thiêu cùng với gia đình của mình vì đã chuyển sang Cơ đốc giáo. Nhà thờ được đổi tên cho Saint Eustache sau khi nhận được các di vật liên quan đến vị thánh tử đạo La Mã do Tu viện Saint Denis quyên góp.
Năm 1969, chợ Halles de Paris được chuyển đến Rungis, làm thay đổi đáng kể khu vực lân cận của Nhà thờ St. Eustache. Les Halles đã trở thành một trung tâm mua sắm và trung tâm giao thông trong khu vực, và Nhà thờ St. Eustache vẫn là một địa danh của khu vực và là một nhà thờ đang hoạt động đều đặn.
Nhiều người Paris nổi tiếng được kết nối với Nhà thờ Thánh Eustache. Louis XIV Rước lễ lần đầu ở đó vào năm 1649. Hồng y Richelieu, Jeanne-Antoinette Poisson (Madame de Pompadour), và Molière đều được rửa tội ở đó; Molière cũng đã kết hôn ở đó vào năm 1662. Mozart đã tổ chức đám tang của mẹ mình ở đó. Tang lễ được tổ chức tại St. Eustache cho Nữ hoàng Anne của Áo, anh hùng quân đội Turenne, và nhà lãnh đạo Cách mạng Pháp Mirabeau. Nhà văn Marie de Gournay được chôn cất ở đó.

Thánh lễ Phục sinh năm 2019 tại nhà thờ Notre-Dame ở Paris đã được di chuyển đến Saint-Eustache sau vụ cháy Notre-Dame de Paris (April 15, 2019).

L’ Ecoute
Ngay phía trước Nhà thờ Thánh Eustache ở Place René Cassin, một tác phẩm điêu khắc khổng lồ hình dạng cái đầu người, với bàn tay chụm lại, nặng 70 tấn bằng đá sa thạch . Nó được gọi là "L'Écoute" ("Nghe"), một tác phẩm của Henri de Miller và được đặt ở đó vào năm 1986.Tác phẩm điêu khắc thực sự là dành riêng cho Rene Cassisn, một nhà hoạt động nhân quyền, vì vậy việc tác phẩm điêu khắc đang lắng nghe những gì mọi người nói là điều rất có ý nghĩa.


La Halle aux Blés hình tròn, được thiết kế bởi Nicolas Le Camus de Mézières, được xây dựng từ năm 1763 đến năm 1767 ở cuối phía tây của Les Halles. Sân ở trung tâm (courtyard) hình tròn của nó sau đó được bao phủ bởi một mái vòm, và được đổi tên thành Bourse de Commerce (Commodities Exchange) vào năm 1889.
Năm 1949, thành phố Paris đã bán tòa nhà cho Phòng Thương mại Paris với giá một franc tượng trưng. Các bức tranh tường và mái vòm đã được xếp hạng là di tích lịch sử vào ngày 15 tháng 1 năm 1975.  Một cuộc tu bổ lớn đã được thực hiện vào năm 1989. Các bức tranh tường đã được trùng tu vào năm 1998.

                                                       Photo by Pline
Đàm Giang
August 27, 2020.

Wednesday, August 26, 2020

A Love Story. MarcLavoine Line Papin. SVDG




Chuyện Tình Marc Lavoine và Line Papin.



Hôm 25 tháng 7 , 2020, Bà Anne Hidalgo, Thị trưởng Paris, đã làm chủ lễ đám cưới cho ca sĩ, nghệ sĩ, tài tử  Marc Lavoine kết hôn cùng  nữ tiểu thuyết gia Line Papin  tại Tòa Thị xã Quận V.
Người viết muốn viết vài hàng về đôi uyên ương Marc Lavoine và Line Papin.



                                               Một chuyện tình rất đẹp.

Tháng 10/2016, trên chương trình «Carte blanche» của đài France Inter do Marc điều hành, Line được mời tới để nói về quyển sách đầu tay L' Éveil của cô  vì Marc cho biết đã đọc kỷ tác phẩm  và say mê chuyện kể trong sách . Và từ lòng ngưỡng mộ đã dẫn đến tình yêu giữa văn nhân và nghệ sĩ . Họ quen biết nhau hai năm và ngày 25 tháng 7, 2020 đã chính thức là vợ chồng. Nàng kém chàng 33 tuổi.

Line Papine  (sanh 30 December 1995) là một cô gái Pháp mang một nửa dòng máu người Việt, cô ra đời ở Hà nội, cha là người Pháp, sử gia chuyên về Việt nam, Khoa trưởng Lịch sử Trường  Pratique des Hautes Etudes, Paris , và mẹ là người Việt, một thông dịch viên người Hà Nội.
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của cô, L'Éveil, do nhà in Stock xuất bản vào tháng 8 năm 2016 gồm 256 trang là câu chuyện của bốn người nước ngoài trẻ tuổi có giọng nói và cuộc sống của họ bắt tréo đường. Cuốn sách đã nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ báo chí, và nhận được  Giải thưởng Văn học Thiên chức. (Prix Literaire de la Vocation) và Giải thưởng Nguyệt quế xanh (Prix des Lauriers Verts).

Cuốn tiểu thuyết thứ hai của cô, Toni, cũng do Stock xuất bản vào tháng 1 năm 2018, và là một câu chuyện về anh chị em trong gia đình. Chuyện kể về cuộc tìm kiếm một cá nhân và tuổi thơ bị mất trong những đêm ở Berlin.

Cuốn sách thứ ba của cô, Les Os des filles, được xuất bản vào tháng 4 năm 2019. Đây là một tự truyện, nó liên quan đến dòng dõi người mẹ và sự mong manh của sự tồn tại, qua ba thế hệ phụ nữ, chiến tranh Việt Nam, lưu vong và bệnh tật. Được báo chí và các nhà bán sách ca ngợi, sách đã được đề cử cho Giải thưởng Độc giả của Cuốn Sách bỏ Túi (Le Livre de Poche).

Marc Lucien Lavoine (sinh ngày 6 tháng 8 năm 1962 tại Longjumeau, Essonne) là một ca sĩ, kịch sĩ, và diễn viên điện ảnh người Pháp. Năm Lavoine 23 tuổi (1985), đĩa hát đơn ăn khách  Nàng có đôi mắt như viên đạn sắc lạnh/Elle a les yeux revolver của Lavoine  đạt vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Đĩa đơn của Pháp và đánh dấu sự khởi đầu thành công trong sự nghiệp ca hát của Lavoine. Cho đến nay Lavoine đã có rất nhiều albums và cũng có đóng nhiều phim nữa kể cả cho đài truyền hình. Loạt phim Crossing Lines (2013-2015) đã chiếu trên Neflix và Amazon cách đây một thời gian.

Album thứ 9 của Lavoine Summer Time (2005), bao gồm các đĩa đơn  Je me sens si seule/I feel so alone, Toi mon amour  bản J’espere/I hope, song ca với ca sĩ người Bỉ gốc Việt Quỳnh Anh. Lavoine cũng viết ca khúc  Bonjour Vietnam (2006) để làm quà tặng cho Quỳnh Anh.
Có thể Lavoine đã được nhớ đến tên trong cộng đồng Việt qua bản J’espere ở trên mà anh hát với Quỳnh Anh năm 2005.

Lavoine đã có hai đời vợ và có 4 người con, con lớn nhất hơn 20 tuổi. Lavoine có tâm tình hướng về Á đông, đã từng có một chuyến lưu diễn với Quỳnh Anh năm 2005, viết một bài nhạc tặng Quỳnh Anh, và nay Lavoine kết hôn với một tiểu thuyết gia trẻ mang hai dòng máu Pháp-Việt.

Người viết có cảm tình với ca sĩ Lavoine, đã giới thiệu Lavoine hát trong bài viết về Cây cầu Le Pont Mirabeau (Alcools/1913).
Các bạn muốn nghe Lavoine hát thì quá dễ, rất nhiều youtube của ca sĩ Lavoine.
Chúc Marc và Line mãi mãi hạnh phúc bên nhau.

Đàm Giang.
August 26, 2020



Monday, August 24, 2020

Thị Trấn Etretat Đáng Nhớ Của Pháp. SVĐG



Một Etretat Đáng Nhớ Của Pháp.

Sóng Việt Đàm Giang

Etretat là một thị trấn có khoảng 1,500 cư dân nằm cách Rouen không xa , trên bờ biển phía đông bắc của Normandie, thuộc khu vực Seine-Maritime, cách hải cảng Le Havre 27 km ở phía nam.


Etretat được coi như là một viên ngọc nhỏ với những mái nhà màu xanh, được che chở bởi những vách đá hùng vĩ. Những vách đá đó chính là điểm thu hút du khách đến vào mùa hè.
Etretat là một phần của bờ biển dài, toàn bộ phần bờ biển này có đặc điểm với những vách đá thiên nhiên có nguồn gốc từ đá phấn trắng. Etretat với những vách đá loại đá phấn hiện diện từ thời thượng cổ được gọi là Turoniano, có khả năng chống chịu tàn phá cao nên ít bị ảnh hưởng của soi mòn liên tục như bờ biển gần đó.
Nói về sự tàn phá của tời gian, sự soi mòn mà nước và gió đã làm trong thời xa xưa vẫn còn để lại dấu tích một vòm tại vách đá Aval và  vòm đá phấn Manneporte cao 90 mét.

Bãi biển Etretat gồm nhiều sỏi, và rất nhiều đá cuội. Giống như hầu hết các bãi biển ở Normandie, bãi này cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi thủy triều cao và thấp. Mỗi ngày có hai đỉnh triều lênhai đỉnh triều xuống. Trong hai đỉnh của thủy triều xuống, nước ở xa bờ biển và bạn có thể đi bộ dưới các vách đá. Tuy nhiên thủy triều nước dâng lên rất nhanh nên tốt hơn là không nên đi quá xa khỏi thị trấn Etretat.  Ở gần ngay tại điểm bắt đầu đi lên vách đá Aval, gần các bậc thang dẫn đến bãi biển có một bảng ghi chi tiết thời gian thủy triều lên và xuống của cả tháng. Trong mùa hè, một hệ thống phòng ngừa cũng được thiết lập, có người quan sát.
Đim đặc biệt của ngôi làng nhỏ Etretat là này những vách đá với vòm Amont, nằm ở phía đông-bắc, cùng vách đá vòm Aval và vòm Manneporte nằm tại tây-nam của vùng dải bờ biển của thị trấn.



Vách đá Etretat. Bạn có thể đi bộ leo lên vách đá Aval. Khi ở trên vách đá Amont, bạn có thể chọn giữa đi bộ và lái xe. Để lên đến đỉnh có một con đường khá lớn không sát biển. Đường đi lên chỉ dốc trong phần đầu tiên, sau đó sẽ thoải mái hơn. Khi bạn nhìn xung quanh, bạn sẽ được thưởng thức khung cảnh ngoạn mục của toàn bộ ngôi làng với vách đá Amont ở phía hậu cảnh.
Tiếp tục đi trên vách đá Aval và băng qua vách đá tiếp là vòm Manneporte. Từ điểm trên vòm Manneporte này, nhìn về phía ra biển, thì ta thấy có một sự hình thành đặc biệt khác vách đá Aiguille, một tảng đá cao 70 mét có hình dạng của một tháp đá chuông kim Aiguille (Needle), gần cạnh là vòm Aval, rồi một sân golf cũng đã được xây dựng trên đỉnh vách núi Aval xa hơn nữa là một vách đá khác mang tên Amont ở tận cuối bãi biển Etretat.
Nếu hình dung một cách dễ hiểu thì nếu đứng ở bãi biển Etretat nhìn ra biển thì bên phải là vách và vòm Amont. Bên trái là vách và vòm Aval và cây kim đá Aiguille, phiá sau vách Aval là vòm Manneporte nhưng vòm Manneporte bị khuất sau mỏm vách vòm Aval nên không thấy được.


Vách đá Amont. Đi bộ hoặc bằng ô tô cũng được. Ngoài ra, còn có con đường Avenue Damilaville lát đá dẫn đến Chapelle Notre-Dame de la Garde ở trên đỉnh.
Ngoài ra nơi này còn có Nhà thờ Notre-Dame d'Étretat, thuộc Sở Hàng hải Seine của Pháp, có từ thế kỷ 12 và 13. Nhà thờ này đã được tu sửa vào thế kỷ 19 và được xếp hạng là một di tích lịch sử. Ngay cạnh là nghĩa trang chôn cất mồ của những người lính của Commenweath đã tử trận nơi đây trong Thế Chiến I.

Vòm Manneporte. Cấu hình của "những vách đá cao bị xoi mòn trở thành những vòm kỳ lạ này được gọi là Cổng" (Maupassant, Adieu, 1884) đã tạo cho nơi này một cảnh quan khác thường. Manneporte, vòm hở lớn nhất trong số ba vòm hở trong vách đá, là “một vòm hầm khổng lồ mà một chiếc tầu nhỏ có thể đi xuyên qua được” (Maupassant, Guillemot Rock, 1882).





Những danh nhân nghệ sĩ một thời gắn bó với Etretat

 Guy de Maupassant (1850-1893) là một nhà văn chuyên viết chuyện ngắn nổi tiếng của Pháp .
Hoạt động văn chương của ông bắt đầu khoảng giữa thời gian từ 1871-1880, bắt đầu bằng những bài thơ. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của người thầy, người cha đỡ đầu Gustave Flaubert, và ông bắt đầu quay sang khuynh hướng hiện thực và tiếp nhận những nguyên lý nghệ thuật của Flaubert.Vì sinh trưởng tại vùng Normandie nên ông rất gắn bó vời vùng đất quê hương ông.
Từ năm 1880-1891, ông đã sáng tác khoảng 300 truyện ngắn, trong đó có rất nhiều truyện xuất sắc như: Người đã khuấtMón tư trangCái thùng conCon quỷĐi ngựaNgười đàn bà làm nghề độn ghế... Và 6 tiểu thuyết: Une Vie (Một cuộc đời, 1883), Bel Ami (Ông bạn đẹp, 1885), Mon Oriol (Oriol của tôi, 1887), Pierre et Jean (1888), Fort comme la Mort (Mạnh như cái chết, 1889), Notre Coeur (Lòng ta, 1889).
Claude Monet (1840-1926). Vào mùa đông năm 1868-1869, họa sĩ  trường phái ấn tượng Claude Monet đã chú ý và đến thăm Etretat ở vùng Caux của Normandie. Sau đó, ông trở lại đó hàng năm trong khoảng thời gian từ 1883 đến 1886. Giống như một số họa sĩ khác, đặc biệt là Gustave Courbet, Monet bị quyến rũ bởi những nét đẹp như tranh vẽ của nơi này, và đã lấy cảm hứng từ nó cho cỡ năm mươi bức tranh của ông.


Ngoài rất nhiều bức họa vẽ vách đá Aval, ông còn vẽ những cảnh đẹp thiên nhiên gần quanh đó. Vòm đá Manneporte chỉ xuất hiện trong năm bức tranh của Monet (1883-1885).
Cũng trong thời gian này, Monet thường xuyên gặp gỡ Maupassant đang sống ở Etretat. Nhà văn Maupassant đã chọn nơi này làm bối cảnh cho một số truyện ngắn của mình. Cảm xúc của Maupassant, được thể hiện trong suốt các mô tả của ông, gần gũi với cảm xúc của người họa sĩ. Có thể nói  khung cảnh của những vách đá này biểu hiệu cho mối liên hệ chặt chẽ giữa nghệ thuật và văn học trong thế kỷ 19 và sự gắn bó của Monet đối với bờ biển Normandie.  Nếu ta theo dõi tiến trình vẽ của Monet sẽ nhận thấy sau một loạt hình vẽ Etretat (1883-1886), là một loạt những tranh của ông tại một số địa điểm ở Pháp (và ngay cả ở Anh quốc) trong những thập niên tiếp theo như Haystacks (1884-1893), Grainstacks (1888-1891/30 paintings), Rouen Cathedral paintings (1892-1894/23 paintings), v.v…



Claude Monet vẽ The Manneporte (Etretat) vào năm 1883. Manneporte, một vòm tự nhiên khổng lồ nhô ra biển trên bãi biển Etretat, đã thu hút sự chú ý của Monet trong thời gian ông ở Bờ biển vào những tháng đầu năm 1883.

Monet đã dành phần lớn thời gian của tháng 2 năm 1883 tại Étretat, một làng chài và khu nghỉ mát trên bờ biển Normandy. Ông đã vẽ hai mươi quang cảnh bãi biển và ba vách đá đặc biệt trong khu vực: Aval, Amont và Manneporte. Ánh sáng mặt trời chiếu vào vách đá có hiệu ứng trung hòa vật chất cho phép nghệ sĩ diễn tả được màu sắc và độ sáng kỳ diệu của vách đá theo dòng thời gian của ngày. Hầu hết các du khách đến thăm đã bị thu hút bởi tảng đá như một kỳ quan thiên nhiên. Trái lại, Monet tập trung nhận thức vào sự thay đổi màu sắc của vách đá vào những thời điểm khác nhau trong ngày.
Trong những bức tranh vẽ vách Aval, chỉ có một tấm duy nhất vẽ có hình mặt lặn (Etretat:Sunset). Bức họa này gây nhiều thử thách về vị trí và ngày ông vẽ bức họa. Và một đội nghiên cứu thiên học và vật lý thuộc Đại học BangTexas do Giáo sư Donald Olson hướng dẫn đã cho kết luân sau những tìm tòi lâu dài, đo tọa độ mặt trời lặn, vị trí và khoảng cách v.v… rằng bức họa Hoàng hôn tại  Etretat  đuợc Monet quan sát mặt trời lặn ngày 5 tháng 2 năm 1883 vào lúc 4:64 chiều, giờ địa phương.


Đúng ngày giờ đó hay không có lẽ không quan trọng với người đứng ngắm bức họa; cảm được bức họa mới là điều đáng kể.

Maurice Leblanc. Maurice Marie Émile Leblanc ( 1864-1941) là một tiểu thuyết gia và nhà văn viết truyện ngắn người Pháp, chủ yếu được biết đến với tư cách là người sáng tạo ra tên trộm và thám tử hư cấu Arsène Lupin , thường được mô tả như một đối tác của Pháp với tác phẩm Sherlock Holmes của Arthur Conan Doyle.
Leblanc sinh trưởng tại Rouen, Normandie, ông cũng từng chịu ảnh hưởng của Gustave Flaubert và  Maupassant, đã từng thử viết chuyện ngắn nhưng không mấy thành công, và nhiều thể loại như tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết phiêu lưu và khoa học huyễn tưởng.
Leblanc lúc đầu chỉ được coi là một nhà văn viết truyện ngắn cho các tạp chí định kỳ khác nhau của Pháp cho đến khi truyện Arsène Lupin đầu tiên xuất hiện trong một loạt truyện ngắn được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Je sais tout, bắt đầu từ số 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905 được tán thưởng nhiệt liệt và bất ngờ Leblanc trở nên thành công và nổi tiếng. Tổng cộng, Leblanc đã viết 21 tiểu thuyết Lupin hoặc tuyển tập truyện ngắn.  Giống như Conan Doyle, người thường tỏ ra mặc cảm hoặc bị cản trở bởi sự thành công của Sherlock Holmes và dường như coi thành công của mình trong lĩnh vực tiểu thuyết trinh thám là một thứ ngăn cản tham vọng văn học "đáng trọng" hơn của mình, Leblanc cũng tỏ ra bực bội với thành công của Lupin. Nhiều lần, Leblanc đã cố gắng tạo ra các nhân vật khác nhưng không thành công, cuối cùng Leblanc đã hoàn toàn hợp nhất viết chuyệnvề với Lupin. Ông tiếp tục viết truyện Lupin vào tận những năm 1930.

Nhà văn và nhà báo Maurice Leblanc là người con của xứ sở Etretat, nay vẫn còn ngôi nhà của ông tên là Le Clos Lupin, lấy tên từ nhân vật tiểu thuyết trinh thám Arsène Lupin le Gentleman Cambrioleur. Nay Etretat vẫn tổ chức chuyến đi 7 chặng từ Le Clos Lupin đi khắp Etretat để cùng khám phá với tác giả những bí mật của nhà trinh thám Arsène Lupin.



Đây là ngôi nhà nơi nhà văn Maurice Leblanc đã sống và viết tiểu thuyết về "Robin Hood người Pháp" Arsene Lupin
Bạn có thể nhìn thấy ngôi nhà và khu vườn được chăm sóc cẩn thận của nó trên đường đi từ nơi đậu xe lớn nhất đến trung tâm thị trấn, chỉ cần để ý các bảng chỉ dẫn. Ngôi nhà với hình dạng khác thường trông cũng khá bí ẩn.

Gustave Courbet (1819-1877).
Etretat đã thu hút các họa sĩ từ đầu thế kỷ 19, được vẽ bởi sự trong lành của không khí và chất lượng của ánh sáng. Vào mùa hè năm 1869, Gustave Courbet  đến thị trấn Norman nhỏ bé này. Ông ở trong một ngôi nhà ven biển, nằm dựa vào vách đá bên trái vách Aval  mà ông đã vẽ đi vẽ lại nhiều lần. Phiên bản thành công nhất của ông là bức họa Vách đá Etretat sau cơn bão.
Trong khung cảnh thuần khiết này, Không một  bóng người, Courbet cân bằng tuyệt vời giữa đất và đá, bầu trời và biển cả. Ông đã làm cho từng yếu tố tự nhiên gần như có thể sờ thấy được. Sự trong lành của không khí và ánh sáng lấp ló sau cơn mưa được thu hút một cách tuyệt vời. Nhà phê bình Castagnary, một người bạn của Courbet và là một người tin tưởng chắc chắn vào chủ nghĩa hiện thực, đã nói về không khí tự do, vui vẻ luân chuyển trong bức tranh và bao trùm các chi tiết đã làm cho ông đột nhiên hiểu được sự ngưỡng mộ mà những người theo trường phái Ấn tượng tương lai đang thực hiện".



Courbet đã gửi Bức tranh Vách đá Etretat sau cơn bãoBiển bão đến Salon năm 1870. Hai bức tranh sơn dầu, được vẽ cùng thời điểm, tạo nên một cuộc đối thoại như thể chúng đang mô tả các giai đoạn liên tiếp của cùng một hiện tượng. Những lời khen ngợi mà họ thu hút được tại Salon đã củng cố danh tiếng của Courbet và khiến ông trở thành một trong những nhân vật hàng đầu trong làng nghệ thuật cùng thời.

Tạm kết.
Etretat với những vách đá hùng vĩ đứng sừng sững phơi cùng trời đất, biển cả, giông bão, gió táp, ngàn đời vẫn còn hiện hữu là những di tích lịch sử của cả một quá khứ bí ẩn trong vũ trụ không gian. Và sự phối hợp văn học, nghệ thuật hội họa trong bối cảnh Etretat đã và sẽ còn được nhắc đến mãi trong lịch sử nhân gian.

SV Đàm Giang.
August 23, 2020.

Hình ảnh sưu tầm trên Internet.
https://en.wikipedia.org/wiki/Maurice_Leblanc