Ai Cập! Ai Cập!
Sóng Việt Đàm Giang
Những thành phố có nhiều di tích lịch sử của Ai cập
nằm dọc theo bờ sông Nile từ bờ biển Địa trung hải (vùng hạ lưu sông Nile) đi
xuống miền nam (thượng lưu sông Nile) được biết đến nhiều nhất phải kể là
Alexandria, Giza, Cairo, Saqquara, Memphis, Dashur, Meidum, Tell el-Amarna, Dendedra,
Karnak, Luxor, Esna, Edfu, Kom Ombo,
Aswan, Philae, và Abu Simbel.
Ai cập là một trong những nước hiện diện sớm nhất ở bên bờ sông Nile ở vùng đông bắc Phi châu. Nến văn minh cổ của Ai Cập là một trong những nền văn minh cổ xưa và sớm nhất trong lịch sử loài người.
Từ ngàn đời người Ai cập đã được biết là có phong
tục ướp xác người chết và chôn trong những ngôi mộ như Masbata và Kim tự tháp.
Mastabas là nguồn gốc đầu tiên của Kim tự tháp với một khối hình tháp xây bằng
đá. Trong Mastaba có ba phòng: sảnh đường, phòng tế lễ và phòng thờ (nơi đặt tượng
người chết). Mastaba hiện còn thấy ở vùng lăng mộ vua chúa ở Memphis,
Ai cập.
Một
trong những Kim tự tháp lớn đầu tiên là Kim tự tháp Djoser ở Saqquara hình bậc
thang, gồm 6 tầng thang,phía trên thu nhỏ dần,
đáy hình chữ nhật, cao chừng 60 m. Đây là công trình của Imhotep (BC
2770). Hai kim tự tháp có ba bậc nhỏ hơn tìm thấy ở Meidum và Dashur.
Kim
tự tháp ở Giza gồm 3 kim tự tháp nổi tiếng là Kheops, Khephren, và Mykerinos.
Những kim tự tháp này là tháp đá vôi. Ở Giza, ngoài ba kim tự tháp trên phải
nói đến tượng Sphinx.
Đền thờ cổ xưa được biết là dùng để thờ thần Mặt
trời, nơi này cũng chính là để thờ vua. Một đền thờ tiêu biểu còn thấy rõ như Đền
Karnak ở Karnak . Theo tài liệu cổ thì đền thờ gồm có một tiền tháp môn
(propylon), một đường lát đá hai bên có những tượng đầu người mình thú, rồi bút
tháp obelisk, tượng vua và cửa tháp.
Đời sống Ai Cập cổ coi như gắn liền với sông Nile, một dải sông dài 6695 km (4184 miles), có bẩy nhánh đổ vào Địa Trung Hải. Tên sông Nile bắt nguồn từ chữ Hy lạp “Nelios”, có nghĩa là Sông Thung lũng.
Sông Nile
bắt nguồn từ hồ Victoria, Uganda có tên là giòng Nile Trắng chảy qua Sudan, và
Ai cập. Giòng Nile Xanh bắt nguồn từ hồ Tana, Ethiopa chảy qua Zaire, Kenya, Tanzanian,
Rwanda, và Burundi cùng các nhánh chảy vào sông Nile hay hồ Victoria Nyanes.
Những thành phố chính nằm kề bên sông Nile và Nile Trắng phải kể Cairo,
Gondokoro, Khartoum, Aswan, Thebes/Luxor, Karnak, và thành phố Alexandria nằm
gần nhánh Rosetta .
Trong bài viết đó đây có thể kể rằng sông Nile chảy
từ nam lên bắc. Điều này không có gì khó hiểu vì nước sông chảy theo giòng từ
trên đồi núi cao ở trung Phi tới vùng
delta sông Nile đổ vào biển Địa trung hải. Miền nam Ai Cập được gọi là Thượng
Ai cập, miền bắc Ai Cập gọi là Hạ Ai cập. Trên bản đồ khúc sông Nile chảy qua
Ai Cập nhìn tựa như hình chữ S.
Phần thượng lưu sông Nile nằm phía nam của tượng
Sphinx là một vùng đất hẹp, có ít nguồn lợi thiên nhiên nên không phát triển được
mấy.
Trái lại,
phần hạ lưu sông Nile nơi nước chảy vào biển Địa trung Hải là một vùng đất đồng
bằng phì nhiêu được bồi đắp phù sa với nước sông Nile hàng năm từ tháng 6 đến
tháng 9 nên rất màu mỡ và thuận lợi cho canh nông, mùa màng, trồng trọt và hải sản cùng chim cá cùng động vật.
Tất cả
các điều kiện thuận lợi thiên nhiên trên ở vùng hạ lưu sông Nile đã góp phần hình thành nền văn minh Ai Cập sớm
nhất. Các ngành nghề như đánh bắt cá, nghề nông, thủ công nghiệp, và thương nghiệp đều phát triển ngay từ 3000 năm Trước Công nguyên (BC 3000). Đặc biệt, các di sản kiến
trúc như Kim tự tháp, điêu khắc,
Obelisk, đã được cả thế giới ngưỡng phục
cho đến ngày nay.
Không đi vào chi tiết, chỉ xin tóm tắt là Kim tự
tháp đầu tiên vào thời kỳ 2800 năm Trưóc Công nguyên ( BC 2800) là do Hoàng đế
Djoser ra lệnh cho Imotep xây và dựng ở Saqquara.
Cỡ BC 2700 thì có kim tự tháp ở Meidum và Daschur.
Sau đó là thời kỳ xây dựng kéo dài cỡ 20 năm cho ba Kim tự tháp ở Giza của Kheops (Khufu), Khephren (Krafre), và
Mykerinos (Menkaure). Phía trước Kim tự tháp Khephen là tượng nhân sư Sphinx có
khuôn mặt tựa như Khephren.
Sau thời kỳ Kim tự tháp thì một obelisk
đầu tiên xây dựng ở Abusir để thờ thần mặt trời Re.
Quan niệm về thế
giới huyền bí của người Ai Cập cổ hay tôn giáo tín ngưỡng liên quan
đến thần Ra (hay Re)
Truyền thuyết kể rằng thần linh của người Ai Cập cổ, khi sơ khởi được quan niệm
là một thế giới hỗn hợp của vật chất là nước. Vị thần đầu
tiên, thần Atum (Ra
hay Re), hàng năm xuất
hiện như nước lũ của sông Nile ở xứ sở Ai
Cập. Thần Ra sinh ra các bọt nước, từ đó biến thành
thần Shu (liên
hệ đến tia sáng mặt trời và không khí khô ráo
giữa đất và trời) và nữ thần Tefnut (thần mưa, ẩm
ướt liên hệ đến mặt trời và mặt trăng). Thế giới được tạo ra khi thần Shu và Tefnut sinh ra nữ thần Nut (Trời) và thần Geb (Đất). Theo như thế thì thần Tefnut với người anh song sinh Shu (và
cũng là chồng) cùng với hai con tạo nên bốn nguyên tố chính: đất (Geb), trời
(Nut), không khí (Shu), và nước (Tefnut). Người Ai cập có lòng tin rằng nếu
không có nước của nữ thần Tefnut thì Ai cập sẽ bị khô cằn và bị mặt trời đốt
cháy.
Nut
và Geb có bốn con là Osiris, Seth, Nephthys, và Isis. Isis
là em và cũng là vợ của Osiris, con trai lớn của thần Geb. Osiris được cử làm vua Ai Cập cổ. Người em trai của Osiris là Seth được xem là người xấu. Vì ghen ghét, Seth đã âm
mưu giết Osiris, phân thây ra làm nhiều mảnh vứt bỏ rải rác khắp nơi, và tự lên ngôi
làm vua Ai Cập. Isis, vợ Osiris tìm đủ mọi cách để thu thập hầu hết những
mảnh thân thể của chồng, nhờ thần Thoth dùng phép làm Osiris sống lại và sau đó
Isis tự thụ thai với tinh trùng của Osiris và sinh ra Horus. Horus sau đó, tìm
cách trả thù cho cha. Seth thách đấu với Horus, bị thua, và bị đày đến sa
mạc và biến thành thần bão cát khủng khiếp. Osiris được ướp xác bởi Anubis và biến thành
thần của thế giới bên kia. Horus lên
ngôi vua và trở thành pharaoh.
Có rất nhiều truyền thuyết xung quanh vị thần Ai cập và các triều đại Ai Cập.
Người
Ai cập thờ rất nhiều loại thần. Họ cho rằng khi những hoàng đế (pharaohs) của
họ chết đi, qua thế giới bên kia thì sẽ biết thành thần. Thế giới của người Ai Cập luôn xoay
quanh các điều thần bí về con sông Nile và sa mạc, tạo
nên một đức tin về các thế lực thần bí, luôn lôi kéo con người phải thuần phục các pharaohs và coi
các pharaoh như một vị thần hiện hữu, thay mặt các vị thần khác có nhiệm vụ trông coi
dân Ai Cập, cùng dung hòa các thế lực thiên nhiên khắc nghiệt
để mang lại cho nhân dân Ai Cập một
cuộc sống yên lành bên cạnh dòng sông Nile.
Như trên đã đề cập, Osiris bị người em độc ác
Seth giết chết. Sau đó Osiris được Thoth làm phép cho sống lại (phục sinh).
Công thức I.A.O. (Isis, Apophis, Osiris)
Sinh ra, Chết đi, Phục sinh rât quen thuộc với người Ai cập. Osiris giữ
vai trò quan trọng trong Ai cập cổ huyền bí, và là vị thần được dân Ai cập hết lòng
yêu quý và ngưỡng phục. Osiris dạy dân Ai cập cách làm ruộng, ăn rau, và ăn
thịt thú vật đúng cách. Osiris cũng là
vị thần của thế giới bên kia. Hình cho thấy Osiris là người được gói thân như
xác ướp, có da mầu xanh, tay cầm một cái
móc và một cái đòn đập lúa. Trên đầu Osiris mang một vương miện (atef) gồm một
mũ hình nón trắng tượng trưng Thượng Ai Cập, có gắn lông đỏ hai bên.
Một
tấm hình vẽ cho thấy nữ thần Nut cong người lên, có hai tay và hai chân chạm
đất tạo thành một bán cầu. Thần Nut tượng trưng cho thiên đàng, chân và tay tượng
trưng cho bốn cột trụ để trời nghỉ ngơi. Nut được thần không khí Shu (bố) đỡ. Chồng nàng nằm nghiêng trên mặt
đất, chống một khửu tay và hai chân ở trên mặt đất. Vị trí nằm miêu tả đồi và
thung lũng. Truyền thuyết nói rằng khi Shu nâng Nut (trời) trên Geb (đất), Shu
đã chấm dứt được sự hỗn loạn mà nếu Shu thay đổi vị trí thì sự hỗn loạn lại xẩy
ra.
Chữ cổ Ai cập-Tefnut
Đã lâu, các nhà khảo cổ học tìm thấy những ký hiệu tượng
hình được khắc trên các bức tranh trong các di tích tìm thấy khi tiến hành khai
quật Heliopolis vào năm 1894. Tuổi của
những chữ tượng hình này có niên đại vào khoảng 3200 TCN. Các nhà khảo cổ Ai cập xếp hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ vào thể loại chữ tượng hình là lối viết sớm của hệ thống chữ viết của
thế giới.
Chữ tượng hình Ai Cập cổ không còn được
sử dụng từ thế kỷ thứ 4. Đến
thế kỷ 15, người ta bắt
đầu tìm cách giải mã hệ thống chữ viết của Ai Cập
cổ. Đến thế kỷ 19, nhà khảo cổ người Pháp là Champollion đã giải mã được văn tự
Ai Cập này.
Cuối thế kỷ 20, người ta đã truy ra là
mẫu tự Phoenix (tổ tiên của người Li Ban) đã được đặt ra bắt chước theo văn tự
Ai Cập. Sau đó các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và La-Tinh đã dựa theo mẫu tự
Phoenix để thành lập chữ viết của mình. Ngày nay, các xứ dùng mẫu tự La Tinh,
trong đó có Việt Nam, Pháp, Anh; các xứ dùng mẫu tự Hi Lạp, trong đó có Nga đều
thừa hưởng di sản của chữ viết Ai Cập.
Điều ấn tượng nhất chính là kỹ thuật
xây dựng của người Ai Cập cổ. Những công trình đồ sộ, cao lớn và chính xác theo
quan niệm vũ trụ của người Ai Cập cổ đến hôm nay cũng
làm cho các nhà khảo cổ học lúng túng và việc liên tục khám phá. Có nhiều công trình nghiên cứu mới ra đời thay thế cho các lập luận cũ không
còn đứng vững. Cũng cần nhắc đến kiểu kiến trúc đặc biệt của các cổng, cửa theo kiểu của vòm ở triều đại thứ 4; tất cả các lối vào
của các công trình lớn được kết cấu bởi các cổng lớn có dầm đỡ.
Ai
cập bắt đầu thuộc Ai Cập từ khi Đại đế Alexandros III làm vua xứ Macedonia vào năm 332 TCN. Khi
Alexandros chết năm 323 TCN thì Ai cập rơi vào tay của Ptolemy. Triều đại
Ptolemy bắt đầu từ đó và trị vì gần 300 năm và chấm dứt với nữ hoàng Cleopatra
VII.
Nhà Ptolemy truyền đến người trị vì cuối cùng
là nữ hoàng
Cleopatra VII Philopator. Năm 51 TCN, bà cùng lên ngôi và cưới người em trai, Plolemy XIII Theos Philopator.
Năm 49 TCN, ở La Mã có cuộc nội chiến giữa hoàng đế Julius Cesar
và tướng Gnaeus Pompeius Magnus. Năm 48 TCN,
Cleopatra bị lật đổ. Cùng năm đó, Pompeius bị đánh bại, ông phải chạy trốn vào Ai
Cập và bị giết tại thành Alexandria bởi một viên quan của vua Ptolemy XIII. Caesar đã chiến thắng, xong sai đó ông lại dính vào cuộc nội
chiến dành quyền giữa Ptolemy XIII và Cleopatra. Quân đội của Ptolemy XIII bị
tiêu diệt và Caesar trở thành tình nhân của Cleopatra, ông lập lại ngôi vị cho Cleopatra. Cleopatra lại lên ngôi cùng một người em khác là Plotemy XIV, còn Cleopatra thì
theo Caesar về La Mã. Năm 44 TCN, Caesar bị giết và Cleopatra trở về Ai Cập.
Năm 41 TCN, Cleopatra gắn bó với Marcus Antonius, một vị danh tướng La Mã. Năm 31 TCN, La Mã có nội chiến, Cleopatra và Antonius cùng ra đánh trận Actium ngoài khơi. Tại đây, Cleopatra
và Antonius đã bị danh tướng Octavian (người cháu gọi Caesar là chú) đánh bại. Theo truyền thuyết, sau thất bại, Cleopatra về cung
điện và tự sát bằng rắn độc. Octavian chiếm được Ai Cập và năm 27 TCN, ông
lên ngôi Hoàng đế La Mã Augustus.
Thời kỳ Ai Cập thuộc Hy Lạp kết thúc. Đất
nước Ai Cập đã biến thành một tỉnh La Mã và bước sang thời kỳ Ai Cập trực thuộc La Mã. Đây là một thời đại thanh bình mà sử gọi là Thái Bình La Mã (Pax Romana).
Những Obelisks cổ ở Ai Cập.
Những obelisk cổ còn lại ở Ai Cập
không nhiều, tổng cộng tám cái, gồm ba ở Karnak, một ở Luxor, một ở Viện bảo
tàng Luxor, ba ở Cairo và một obelisk dang dở vẫn còn nằm ở Aswan.
Đền đài Karnak, Thebes có ba obelisks:
Obelisk Tuthmosis I, cao 66-75ft nặng cỡ 143-160 tons.
Obelisk
Hatshepsut, cao 97ft nặng 320-323tons
Obelisk Seti II, cao cỡ 23ft
Đền đài Luxor:
Luxor có Obelisk Ramses II cao 82ft nặng 254 tons
Viện Bảo tàng Luxor: có
obelisk Ramses II
Thành phố Cairo:
Heliopolis, Cairo. có Obelisk Senusret cao cỡ 69 ft nặng 120 tons
Gezira Island, Cairo.
Có obelisk Ramses II cao cỡ 68 ft nặng
120 tons
Cairo International
Airport. Có Obelisk Ramses II cao cỡ
56 ft nặng 110 tons
Obelisk-Tượng Ramesses.Luxor
Hypostyle Hall
Đền
Luxor
Đền
Luxor được Amenhotep III cho xây cất để thờ thần Amun-Re, vợ là Mut, và con
trai là Khonsu. Đền này được coi là nơi trú ẩn của Amun Re. Đền này trực tiếp
nối liền với đền Karnak, trung tâm chính
để thờ Amun-Re hay Amun-Min, là thần mắn con. Ngày xưa trước đền có một
cặp obelisks dành riêng cho Ramesses II thờ thần Ramun-Re. Nhưng hiện nay chỉ
còn có một obelisk làm bằng đá hoa cương hồng, cao 25 m (82ft) nặng cỡ 254
tons. Obelisk thứ hai cao 23 m, (72 ft/230
tons) hiện ở tại Place de La Concorde, Paris, Pháp. Pháp đã nhận obelisk này như món quà của Ai
Cập vào năm 1836 để thắt chặt ngoại
giao giữa hai quốc gia. Lối dẫn vào đền cũng còn tồn tại hai tượng Ramesses
ngồi. Trong thời gian đền Luxor còn nằm ẩn sâu dưới lòng đất cát thì vào thế
kỷ thứ XIV một ngôi đền Hồi giáo được xây ngay phía trên ngôi đền Luxor. Hiện
nay đền Hồi giáo vẫn còn thấy.
|
Đền đài Karnak |
Như đã nói ở trên dẫy đền
đài Karnak nằm ngay gần phía bắc của Luxor. Nơi đây có đủ loại di tích như đaị
lộ đầu người mình thú dẫn đến đền thờ, cột trụ khổng lồ. Đền Karnak được phân
chia ra làm bốn khu vực. Chỉ có khu của Amun-Re là mở cửa cho du khách. Ai tới
Karnak cũng phải sững sờ trước những hàng cột khổng lồ ở Hypostyle Hall trong
khu
Amun-Re,
một khu vực rộng 5,000 thước vuông, với 130 cột, chia làm 16 dẫy; 122 cột cao
10 m, 12 cột cao 21 m, có đường kính lớn hơn 3 m.
Một
obelisk được Hoàng hậu Hatshepsut (1473-1458 BC) cho dựng lên. Obelisk được cắt
từ đá granite quarries ở Aswan. Obelisk của Hatshepsut cao 97 fr nặng 320 tons.
Dưới đáy có hàng chữ cho biết việc cắt đá và hoàn thành tốn 7 tháng. Hatshepsut
đã dựng 4 obelisks, nhưng chỉ còn có một là đứng. Một đã gẫy và chỉ còn một nửa
nằm gần đó.
Obelisks: Tuthmosis, Hatshepsut
Obelisk dang dở tại
Aswan
Gần đó là một obelisk dựng bởi Tuthmosis
I (1504-1492 BC) nhỏ hơn cao 75 ft, nặng cỡ 160 tons. Obelisk Tuthmosis I hơi
nghiêng một chút. Trên bốn mặt của
obelisk có khắc ba hàng chữ, hàng ở giữa
thường cho biết lịch sử của những vị vua thời đó. Hàng chữ ở mặt phía đông có
liên hệ đến Tuthmosis I.
Ngoài
hai obelisk cao, còn một obelisk rất thấp của Seti II nằm trong Đền lớn của
Amum, cao khoảng 23 ft.
Obelisk thường dựng có đôi, chiều cao hơi
chênh lệch nhau một chút. Kích thước cùng độ góc của cặp obelisk đã được tính
toán kỹ lưỡng khi dựng đặt ở một địa điểm với nhiều nghiên cứu về thiên văn và
lịch ngày tháng.
Obelisk
dang dở ở Aswan
Đây
là obelisk lớn (cao) nhất của thời cổ đại.
Hiện nay obelisk này vẫn còn nằm tại chỗ, còn gắn liền với một tảng đá. Vì có một
vết nứt tự nhiên ở trên tảng đá mà công trình này phải bỏ dở. Obelisk dang dở nằm
ngang này cho thấy có chiều cao 36 m (120 ft), và như vậy nếu được hoàn tất thì
đó là obelisk cao nhất và nặng nhất cỡ 1000 tons. Obelisk dang dở này đã được
cho rằng là một cặp với Lateran obelisk ngày trước dựng ỡ Karnak, nay ở Rome,
Italy, gần nhà thờ San Giovanni.
Obelisk ở Cairo.
Thành phố thủ
đô Cairo có 3 obelisks
Heliopolis
Cairo Airport
Obelisk ở tại Heliopolis,
Cairo, Egypt của pharaoh Sesostris I (trị vì 1972-1928 B.C.), cao 69 feet, nặng 120 tons. Đây là obelisk cổ nhất
từ thời Trung Nguyên (2050-1786 B.C.), được dựng để kỷ niệm trị vì hơn 30 năm của
vị pharaoh Sesotris I. Người ta cho rằng cái obelisk thứ hai đã đổ mất vào thế
kỷ thứ 12 A.D.
Obelisk ở Vườn Al Andalus, Gezira Island. Đây là obelisk của
Ramses II xuất xứ ở Tanis cách bắc Cairo cỡ 70 miles. Nó được chuyên chở đến Vườn
Al Andalus, đảo Gezira trên sông Nile, gần Cairo vào năm 1958. Obelisk này cao cỡ
45 ft.
Và ở gần phi trường Cairo có một Obelisk
cao cỡ 56 ft.
Ngoài obelisks cổ không mang nhiều ấn tượng,
Cairo có Đền Al Azhar mosque, Cairo tower, và viện bảo tàng Ai cập, Cairo. Viện
bảo tàng Cairo là một trong những VBT lớn nhất thế giới với những tạo tác và di
sản từ thời cổ đại với 250,000 mẫu vật có từ 5,000 năm về trước và 11 xác ướp của
các triều đại Pharoah Ai cập. Tại đây, bộ sưu tập những báu vật của vua Tutankhamum là nơi
được chiêm ngưỡng nhiều nhất.
Sóng Việt Đàm Giang