Friday, May 29, 2020

Thơ Lục Du. Thẩm Viên I - II. SVĐG thu thập


Lục Du

Lục Du (1125-1210)bị mẹ ép buộc phải bỏ vợ đầu Đường Uyển và lấy Vương Thị.
Một thời gian sau, ông gặp lại Đường Uyển ở vườn Thẩm, hai người nhìn nhau đau khổ, ông làm bài từ Thoa đâu Phượng , nàng cũng đáp lại một bài từ Thoa đầu Phượng, sau đó nàng trở về nhà sinh ốm rồi chết.
Năm ông 75 tuổi (1199) Lục Du thăm lại Thẩm viên, nhớ chuyện cũ, bèn làm hai bài thơ Thẩm Viên này thương nhớ Đường Uyển.

I  


Thẩm viên (I) kỳ 1
Thành thượng tà dương hoạ giốc ai,
Thẩm viên phi phục cựu trì đài.
Thương Tâm kiều hạ xuân ba lục,
Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.

Giốc (hay giác). Tù và (từ điển Thiều Chửu)
Thương Tâm kiều. Cầu này sau gọi là cầu Xuân Ba, nhân câu thơ “Xuân phong bất cải cựu thời ba” (Gió xuân không thay đổi những con sóng ngày trước) của Hạ Chi Chương mà có tên.
Kinh hồng. Chim hồng sợ hãi, lấy chữ từ bài phú Lạc thần phú 洛神賦 của Tào Thực: “Phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du long” 翩若驚鴻,婉若遊龍 chỉ dáng điệu uyển chuyển của phụ nữ.
Dịch nghĩa
Ánh nắng chiếu xiên trên thành, tiếng tù và buồn bã,
Ao đài trong vườn Thẩm không còn được như xưa.
Dưới cầu Thương Tâm là những đợt sóng nước xanh,
Đã từng soi bóng chim hồng khi bay qua.

Trên thành nắng xế sáo bi ai
Vườn Thẩm đài ao khác cả rồi
Đau đớn sóng xuân cầu vẫn biếc
Bóng hồng e sợ đã từng soi.
Trần Trọng San dịch


II  


Thẩm viên (II) kỳ 2

Thành nam tiểu mạch hựu phùng xuân,
Chỉ kiến mai hoa bất kiến nhân.
Ngọc cốt dĩ thành tuyền hạ thổ,
Mặc ngân do toả bích gian trần.

Đường thành nay lại gặp xuân rồi
Chỉ thấy hoa mai chẳng thấy người
Xương ngọc đã thành bùn dưới suối
Bụi tường còn khoá mực pha phôi.
Trần Trọng San dịch
*

Theo Thivien.net

Tống Biệt. Farewell. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. SVĐG chuyển dịch Anh ngữ


 Bài Từ Tống Biệt.
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

Tản Đà (19 tháng 5 1889 - 7 tháng 6 1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông là một nhà thơ, nhà văn và viết kịch nổi tiếng của Việt Nam.

Bài  Tống biệt với 13 hàng chữ  là bài từ khúc theo điệu Hoa Phong Lạc  trích từ vở chèo Thiên Thai do Tản Đà sáng tác năm 1922. Nội dung vở diễn tích hai chàng thư sinh là Lưu Thần và Nguyễn Triệu đời Hán, nhân Tết Đoan Ngọ (ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch), vào núi Thiên Thai (Chiết Giang, Trung Quốc) hái thuốc bị lạc lối về. Hai chàng bất ngờ gặp được tiên nữ, rồi kết làm vợ chồng. Sống hạnh phúc được nửa năm thì cả hai cùng nhớ quê muốn về thăm. Các tiên nữ cho biết đây là cõi tiên, đã về trần thì không thể trở lại, song vẫn không giữ được hai chàng.
Lưu, Nguyễn về làng thấy quang cảnh khác xưa, hoá ra họ đã xa nhà đến bảy đời. Buồn rầu, hai chàng tìm đường trở lại Thiên Thai, thì không còn thấy các tiên đâu nữa. Kể từ đấy, họ cũng đi đâu biệt tích, không ai còn thấy nữa.


Tống Biệt
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa, luống ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh,
Một phút trần ai,
Ước cũ, duyên thừa, có thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời,
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.


Người viết đã cố gắng chuyển dịch bài Tống Biệt theo đúng từ phổ của nó sao cho:

-trọn bài có đúng 65 syllables, không thừa không thiếu;
-mỗi dòng phải có số syllables tương đương với số âm tiết trong Tống biệt, tức là theo mô thức sau :
7-7-4-4
-7-4
-4-7
-7-2-2
-3-7 = 65 syllables;
- hợp vận ở những chỗ  bài nguyên thủy áp vận: thai, ai, mãi; ngùi, thôi, trôi; trời chơi.

Dịch thơ đã khó, phản ảnh trung thực được ý của bài thơ nguyên thủy lại còn khó hơn vì làm sao chúng ta có thể cảm đúng được cái tâm của nhà thơ khi ông sáng tác? Làm sao mà bài thơ chuyển dịch có thể mang được cả “hồn” lẫn “xác”  của bài thơ?

Sự khác biệt giữa chữ Việt và chữ Anh là chữ Việt có đơn âm, Anh ngữ có thể là đơn âm hay đa âm.
Một chút “xác”: bài thơ chuyển dịch dưới đây có đúng số chữ (words) trong từng câu (có nghĩa là số chữ Việt đơn âm tiết (monosyllable) của từng hàng bằng số từ dịch sang chữ Anh với mono hay polysyllable (monosyllabic hay polysyllabic words).  Âm vận trong bài dịch cũng được chuyển dịch theo âm vận của Anh ngữ.
Phần “hồn” bài thơ thì mong cũng đạt được một phần ý mà tác giả Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu  đã muốn diễn tả.

Farewell.

Peach leaves scattered on the Paradise way,
The spring and oriole regretfully bid good-bye.
Six months in Paradise,
One minute  Earth’s day.
Old wishes, short love, must I sight!
Stones wear, mosses fade,
Water flows, flowers fly,
The crane soars up the blue sky.
Heaven and Earth an eternal farewell say.
Cavern’s entrance
Mountain tops
On old paths
I take millennial strolls beneath perpetual moonlight.

Translated by SV Đàm Giang
**

Tống Biệt
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

1.Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai (7)
2.Suối tiễn, oanh đưa , luống ngậm ngùi (7)
3.Nửa năm tiên cảnh (4)
4.Một phút trần ai (4)
5.Ước cũ, duyên thừa , có thế thôi (7)
6.Đá mòn, rêu nhạt (4)
7.Nước chảy, huê trôi (4)
8.Cái hạc bay lên vút tận trời (7)
9.Trời đất từ đây xa cách mãi (7)
10.Cửa động (2)
11.Đầu non (2)
12.Đường lối cũ (3)
13.Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi. (7)

Ghi chú:
Con số trong ngoặc đơn là số chữ trong mỗi câu thơ

Farewell

Peach leaves scattered on the Paradise way. (7)
The spring and oriole regretfully bid good-bye. (7)
Six months in Paradise, (4)
One minute, Earth's day. (4)
Old wishes, short love, must I sigh! (7)
Stones wear, mosses fade, (4)
Water flows, flowers fly. (4)
The crane soars up the blue sky. (7)
Heaven and Earth an eternal farewell say (7).
Cavern's entrance (2)
Mountain tops (2)
On old paths (3)
I take millennial strolls beneath perpetual moonlight.(7)

Translated by Sóng Việt Đàm Giang

Note.
Line 1,4, 9:  thai, ai, mãi.  ---------> way, day, say
Line  2,5, 7:  ngùi, thôi, trôi-------> bye, sight, fly
Line 8,13:     trời, chơi -------------> sky, moonlight

**
Farwell
With peach leaves scattered on the path to Paradise's mountains
The spring and the oriole regretfully bid farewell
After six months living in a wonderful paradise
I'm taking the first step back to earthly life.
Let old wishes and ephemeral love fade away.
Let the moss wither on the worn stone,
And the water carries off the flowers.
As the crane flies high in the firmament,
Let heaven and earth part forever
The old path
to the cave 's entrance  
and the mountain top
Leads me on my eternal leisurely moonlit stroll
Translated by Song Viet Dam Giang
Oct 22, 2002


Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (19 May 1889- 7 June 1939) was a Vietnamese poet, writer and playwright.
This poem is actually an aria from a hat cheo theater work that Tan Da wrote called "Thien Thai," meaning "T'ien T'ai Mountain," or "paradise." It's based on the story of two young Chinese scholars in the 1st century AD--Liu Chien and Juan Chao. They got lost while searching for medicinal plants in the vicinity of T'ien T'ai mountain. They followed the Peach Tree Spring and ended up in a paradise with beautiful fairy deities who became their lovers. After half a year they became homesick and although they knew they could never return to paradise, they decided to go back to the mortal realm. Upon returning they discovered that nearly three hundred years had elapsed. Tan Da's poem captures this multi-layered sense of time--the half year and single step contrast with the stones, moss and waters in their relentless natural processes with the thousand years of moon play. Paradise ultimately becomes a beautiful memory that must be left behind as they return to the mortal world.
(Note. There are two different versions on line 4, one said one step/một bước, another said one minute/một phút).
SVĐG



Tuesday, May 26, 2020

Love Story. Lục Du và Đường Uyển. LuYouTangWan. Thẩm Viên. Shen's Garden


Chuyện tình và hai bài Từ của Lục Du và Đường Uyển.

Trong khi dọn phòng thư viện và computer, tình cờ gặp được lá thư dài trên giấy in của BS Tích gửi vào VMAFcỡ năm 2002. Nên xin đuợc tiếp nối cho trọn.
Cách đây 18 năm Diễn đàn Y sĩ có đề tài về thơ Hán, và BS Trần Văn Tích đã khởi xuớng và viết rất nhiều về thơ Hán Việt, trong đó BS Tích có cho ý kiến về chuyển dịch từ chữ Hán Việt sang ngoại ngữ (thí dụ như Anh, Pháp), lý do vì chữ Việt là đơn âm còn Anh Ngữ Pháp ngữ là đa âm. Rồi BS Tích nói về một thí dụ là bài Tống Biệt.
Sóng Việt ĐG có hưởng ứng và có dịch bài thơ Tống Biệt (lần đầu) sang Anh ngữ, rất bình thường nhưng không thể có được đúng 65 syllables như bài nguyên thủy trong bản dịch Anh ngữ.
Thế rồi sau vài ngày cặm cụi suy nghĩ, SVĐG cũng viết được  một bản chuyển dịch bài Tống biệt sang Anh ngữ (lần thứ hai) với đúng 65 âm (với sự giúp đỡ của GS/TS Văn chương TDL).
Kèm theo là một phần trang chót của  email dài 7 trang giấy in mà BS Tích đã gửi lên Diễn đàn Y Sĩ hồi đó.  Phần Tái bút, BS Tích đã cho lời bình là bản số 2 đã hợp vần, đúng số chữ nên gần gụi hơn với nguyên tác.
Không nhớ đã trả lời BS Tích ra sao hồi đó.
Nhưng hôm nay, qua thư này SVĐG xin được cảm ơn  BS Tích đã rất kiên nhẫn, ôn tồn, hoà nhã giải thích và giúp người viết tiến bộ nhiều hơn trong hiểu biết thi ca, văn hóa, và nghệ thuật.

TB. BS Tích có nhắc đến  BS TLHP. Anh TLHP hồi đó (2001-2002) rất có nhiệt tâm với Hội. Năm 2003 thì TLHP lập gia đình với  DS Dương C Thủy, và rồi lập nghiệp ở miền Bắc Canada. 


**
Phần tiếp xin chép lại hai bài Từ trong Chuyện tình của Lục Du và Đường Uyển.
SV Đàm Giang.

Đường Uyển là em cô cậu của Lục Du  từ bé đã tài hoa, giỏi văn chương. Lục Du năm 20 tuổi kết hôn cùng Đường Uyển. Tuy nhiên, chính sự  tài hoa của Đường Uyển khiến mẫu thân của Lục Du không ưa (người xưa quan niệm con gái càng kém tài thì càng nhiều đức). Lục mẫu e sợ Đường Uyển làm ảnh hưởng tiền đồ của Lục Du nên cưỡng ép họ xa cách nhau. và ép Lục Du phải lấy Vương Thị, một người con gái ôn nhu.
Khá lâu sau, vào mùa xuân, hai người tình cờ cùng đi chơi vườn Thẩm, ngẫu nhiên gặp nhau. Đường Uyển lấy tình anh em họ, gửi rượu và dã vị mời Lục Du. Lục Du vô cùng thương cảm, vung bút đề lên bức tường trong vườn Thẩm bài từ Thoa đầu phụng. Đường Uyển sau khi đọc được bài này trong lòng rất đau khổ, làm một bài từ Thoa đầu phụng hoạ lại. Sau đó một thời gian nàng đau buồn, lâm trọng bệnh mà qua đời.

Thẩm Viên.
Bài từ Thoa Đầu Phượng . Lục Du
Hồng tô thủ,
Hoàng đằng tửu,
Mãn thành xuân sắc cung tường liễu.
Đông phong ác,
Hoan tình bạc.
Nhất hoài sầu tự,
Kỷ niên ly tác!
Thác! Thác! Thác!
Xuân như cựu,
Nhân không sấu,
Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu.
Đào hoa lạc,
Gian trì các.
Sơn minh tuy tại,
Cẩm thư nan thác.
Mạc! Mạc! Mạc!

Chữ Hán:
釵頭鳳 - 陸遊
紅酥手,
黃滕酒,
滿城春色宮牆柳。
東風惡,
歡情薄。
一懷愁緒,
幾年離索!
錯!錯!錯!
春如舊,
人空瘦,
淚痕紅浥鮫綃透。
桃花落,
閒池閣。
山盟雖在,
錦書難托。
莫!莫!莫!

Dịch nghĩa
Bàn tay mềm như bánh hồng tô,
Rượu hoàng đằng thơm ngon,
Sắc xuân khắp trong thành, liễu giam trong tường cung thành.
Gió đông tàn ác,
Tình người mong manh vui được thoáng chốc.
Một mối tình sầu,
Mấy năm chia lìa nhau.
Sai rồi! Sai rồi! Sai rồi!

Xuân vẫn như xưa,
Chỉ có người là đã gầy héo,
Ngấn nước mắt thấm vào khăn tơ hồng.
Đào hoa rơi rụng,
Đài gác, ao hồ lặng lẽ tịch mịch.
Lời thề non dù vẫn còn,
Mà bức thư gấm khó gửi đi.
Đừng! Đừng! Đừng!
 Dịch thơ 
Thoa đầu phượng
Tay trắng muốt,
Rượu vàng rót,
Cây liễu cung sân xuân cách bức.
Gió đông dữ,
Tình thắm lỡ.
Một mối tơ sầu,
Bao năm tan vỡ.
Dở! Dở! Dở!

Xuân như trước,
Người gầy rạc,
Ngấn lệ đỏ ngầu khăn lụa ướt.
Hoa đào rữa,
Lầu gác trở.
Non thề còn kia,
Tờ hoa khôn ngỏ.
Chớ! Chớ! Chớ!
Nguồn: Nguyễn Xuân Tảo, Tống từ, NXB Văn học, 1999

Bản dịch Anh ngữ
Pink soft hands, yellow rippling wine,
The town is filled with Spring, willows by palace walls.
The east wind is biting, happiness is thin,
heart full of sorrow, so many years apart.
Wrong, Wrong, Wrong!
Spring is as of old; the person is empty and thin.
Traces of tears show through the sheer silk.
Peach blossoms falling, glimmering pond freezing,
The huge oath remains, the brocade book is hard to hold.
Don't, Don't, Don't!
Note: The words "wrong" and "don't" rhyme in Chinese.
 Thẩm Viên.  
Bài từ Thoa Đầu Phụng.  Tác giả Đường Uyển

  



Thoa Đầu Phượng - Đường Uyển
Thế tình bạc,
Nhân tình ác,
Vũ tống hoàng hôn hoa dị lạc.
Hiểu phong càn,
Lệ ngân tàn.
Dục tiên tâm sự,
Độc ngữ tà lan.
Nan! Nan! Nan!

Nhân thành các,
Kim phi tạc,
Bệnh hồn thường tự thu thiên tác.
Giốc thanh hàn,
Dạ lan san.
Phạ nhân tầm vấn,
Yết lệ trang hoan.
Man! Man! Man!

Bản dịch
Tình đời bạc,
Tình người ác,
Mưa tiễn hoàng hôn hoa dễ rụng.
Gió sớm khô,
Ngấn lệ tàn,
Muốn viết tâm sự,
Tựa lan can nói thầm.
Khó! Khó! Khó!

Người (trở nên) mỗi nơi,
Hôm nay khác hôm qua,
Hồn bệnh thường như là giây oan nghiệt.
Tiếng tù và lạnh,
Đêm tàn lụn.
Ngại bị người dò hỏi,
Nuốt lệ giả vui. 
Dối! Dối! Dối!

SVĐG tổng hợp.
Nguồn từ nhiều trang nhà khác nhau trên Internet.